Việt Nam trúng thầu bán 1 triệu tấn gạo cho Indonesia

Trao đổi với TBKTSG Online, giám đốc một doanh nghiệp xuất khẩu gạo lớn ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), không muốn nêu tên, đã xác nhận thông tin này, nhưng không cho biết thêm chi tiết về hợp đồng.
Còn ông Lâm Anh Tuấn, Giám đốc Công ty TNHH Thịnh Phát (Bến Tre) - doanh nghiệp hội viên của Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), cho biết trong số 1 triệu tấn gạo trúng thầu bán cho Indonesia, có 750.000 tấn loại 15% tấm và 250.000 tấn loại 5% tấm.
Dù không tiết lộ chi tiết về giá trúng thầu của hợp đồng, nhưng ông Tuấn khẳng định bán được ở mức giá khá tốt, không thua hợp đồng bán 450.000 tấn cho Philippines hôm 17-9 vừa qua là 426,6 đô la Mỹ/tấn (giá giao tại kho của Philippines).
Theo ông Tuấn, thời gian giao hàng của hợp đồng này cũng giống như hợp đồng của Philippines, tức từ tháng 10-2015 đến tháng 3-2016
Như vậy, từ nay đến tháng 3-2016, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo phải giao hàng cho các đối tác ít nhất là 1,45 triệu tấn, tương đương khoảng hơn 240.000 tấn/tháng.
Việc trúng thầu bán 1 triệu tấn gạo cho Indonesia, theo ông Tuấn, là bệ đỡ giúp “khơi thông” tiêu thụ lúa gạo nội địa và nâng giá bán trong nước.
“Có được 2 hợp đồng này (bán cho Philippines và Indonesia), giá lúa gạo sẽ được trả về đúng giá trị thực của nó, nghĩa là mặt bằng giá trên thế giới như vậy, nó sẽ hình thành đúng như vậy.
Do đó, sẽ tránh bị các nước nhập khẩu ép giá và nó sẽ là tiền đề tốt cho tiêu thụ vụ lúa đông xuân 2015-2016 tới,” ông Tuấn cho biết.
Sau khi trúng thầu bán cho Indonesia, giá chào xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp ở ĐBSCL đã được nâng lên khoảng 10 đô la Mỹ/tấn so với trước đó.
Cụ thể, gạo 5% tấm hiện có giá 345-355 đô la Mỹ/tấn và 330-340 đô la Mỹ/tấn đối với gạo 25% tấm.
Về diễn biến thị trường lúa gạo nội địa, hiện gạo nguyên liệu của giống IR 50404 tại thị trường chợ đầu mối lương thực Bà Đắc, huyện Cái Bè, Tiền Giang được các doanh nghiệp xuất khẩu mua vào với giá 6.300-6.400 đồng/kg, tăng 150-200 đồng/kg so với mức giá hồi đầu tuần.
Lúa IR 50404 tươi thu hoạch bằng máy gặt đập liên hợp hiện được thương lái mua vào với giá 4.200-4.300 đồng/kg, tăng khoảng 100-200 đồng/kg so với mức giá hồi đầu tuần.
Theo thống kê của Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), trong tháng 9-2015, xuất khẩu gạo của doanh nghiệp hội viên đơn vị này đạt hơn 532.000 tấn, trị giá FOB đạt hơn 216 triệu đô la Mỹ. Lũy kế xuất khẩu gạo ngày 1-1 đến ngày 30-9-2015 đạt hơn 4,3 triệu tấn, trị giá FOB đạt hơn 1,8 tỉ đô la Mỹ.
Có thể bạn quan tâm

Nghề đánh bắt tôm nhí (tôm hùm con) từ lâu nay được biết đến là một trong những nghề có thu nhập "khủng" của ngư dân vùng biển. Song, để có nguồn thu nhập đó là điều không đơn giản. Có đi, nghe và thấy mới hiểu được những những khó khăn của ngư dân trong những đêm trắng mưu sinh trên biển "săn lộc trời"!

Sự chuyển biến đó là kết quả thực hiện các quyết định của Chính phủ về một số chính sách khuyến khích ngư dân khai thác hải sản vùng biển xa, và hiện nay là triển khai Nghị định 67 về phát triển thủy sản nhằm thúc đẩy sản xuất, ổn định đời sống ngư dân gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biển đảo. Là kết quả khai thác lợi thế điều kiện tự nhiên để nuôi trồng và sản xuất tôm giống, cá nước ngọt, cá lồng bè trên biển.

Để nghề nuôi tôm trên địa bàn phát triển một cách bền vững, mang lại hiệu quả và lợi ích lâu dài, năm 2013 - 2014 Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh đã thực hiện nuôi tôm chân trắng theo mô hình VietGAP tại Móng Cái. Bước đầu mô hình đã mang lại hiệu quả kinh tế, mở ra hướng đi mới cho nghề nuôi tôm của thành phố.

Năm 2015, ngành Nông nghiệp và PTNT phấn đấu tăng diện tích nuôi trồng thủy sản lên 5.800ha; sản lượng đạt 8.000 tấn, chú trọng nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học về giống, thức ăn, chế phẩm sinh học; quy trình kỹ thuật nuôi trồng, phòng trừ dịch bệnh thủy sản theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng…

Theo tính toán của các hộ, việc sử dụng đệm lót sinh học vào chăn nuôi không những giảm thiểu ô nhiễm môi trường, dịch bệnh mà còn giúp người dân tiết kiệm được 15% chi phí về điện, nước, công dọn chuồng trại, tăng trọng con nuôi nhanh, khoảng 10 - 15% so với chăn nuôi theo phương thức truyền thống.