VFA muốn thêm giống Japonica vào thương hiệu gạo Việt

Tuy nhiên, Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) mới đây đề xuất nên tính toán, đưa thêm giống lúa Nhật Japonica vào danh mục giống lúa chọn làm thương hiệu.
Trao đổi về vấn đề này, ông Huỳnh Minh Huệ, Tổng thư ký VFA, cho biết có hai lý do để đề xuất đưa giống lúa Nhật Japonica vào danh mục chọn xây dựng thương hiệu:
Đó là giống này có nhu cầu thị trường, và điều kiện ở Việt Nam thích hợp để sản xuất.
“Vụ đông xuân vừa rồi, nghe nói Kiên Giang và An Giang, mỗi nơi sản suất 5.000 héc ta lúa Japonica và được tiêu thụ rất là tốt, tức là chúng ta có khả năng sản xuất với điều kiện của chúng ta.
Do đó, tôi đề nghị đưa giống Japonica vào danh mục để phát triển thương hiệu gạo trong thời gian tới,” ông Huệ đề xuất.
Ngoài ra, ông Huệ cho biết, vừa qua ông cùng đoàn công tác của Bộ Công Thương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có một chuyến đi khảo sát thị trường Trung Quốc mà cụ thể là ở tỉnh Vân Nam, nơi có nhu cầu rất cao về loại gạo Japonica.
Theo ông Huệ, mỗi năm trung tâm gạo của Vân Nam mua đến 1,4 triệu tấn.
“Toàn bộ là gạo Japonica, tôi không hiểu họ có cố tình không muốn cho mình xem gạo hạt dài hay không? Nhưng, ở đây họ xác định tiêu thụ gạo hạt tròn Japonica là 70%, 30% là hạt dài và họ đã chở chúng tôi đến xem một chợ gạo như vậy,” ông Huệ nói.
Ông Huệ nhận định, với dung lượng thị trường lớn như vậy, rõ ràng nhu cầu đối với giống lúa Nhật Japonica sắp tới cũng sẽ rất lớn, chưa kể đến nhu cầu của một số nước khác.
“Bây giờ với TPP (Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương), Nhật sẽ mở cửa thị trường gạo và thực tế thời gian qua, doanh nghiệp Nhật đã vào hợp tác sản xuất loại gạo này ở Việt Nam rồi,” ông cho biết
Theo đề án phát triển thương hiệu gạo Việt Nam, mục tiêu đến năm 2020 đạt 20% sản lượng gạo xuất khẩu mang thương hiệu Việt Nam và đến năm 2030 đạt 50%, trong đó có 30% tổng lượng gạo xuất khẩu thuộc nhóm gạo thơm và đặc sản.
Có thể bạn quan tâm

Xuất phát từ việc một số ND trong xã đi buôn cây quất cảnh ở Văn Giang (Hưng Yên) vào mỗi dịp tết, thấy mức thu từ cây trồng này khá hấp dẫn, họ đã đem về xã trồng thử. Thấy có hiệu quả, phong trào trồng quất nở rộ và nhân rộng ra toàn xã.

Ông kể: Năm 2009, đang lúc loay hoay tìm giống mới để cải tạo vườn, ông được một người bạn giới thiệu giống mít cao sản. Ông lặn lội xuống tận Cái Mơn (huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre) để mua giống về trồng thử. Lúc này, vườn nhà ông đang trồng xoài nhưng sâu bệnh nhiều, hiệu quả không cao.

Cây ngày có nguồn gốc từ Trung Quốc. Nó đã được nhập vào ta từ rất lâu rồi. Trước đây, nó đã được trồng ở nhiều nơi như Bảo Lộc (Lâm Đồng), Sa Đéc (Đồng Tháp), Châu Đốc (An Giang)... Hiện nay, nó được trồng nhiều ở Cao Bằng và Lạng Sơn (nhiều nhất là huyện Tràng Định).

Tại Lâm Đồng, chè được trồng chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 8 (tốt nhất trồng trong tháng 6). Nhiệt độ 18 - 25 độ C, độ ẩm không khí 80 - 85% và lượng mưa hàng năm từ 1.500 - 2.000mm thích hợp nhất cho chè phát triển.

Nên bón thêm phân hữu cơ bởi phân hữu cơ không những cung cấp dinh dưỡng cho cây mà còn cải thiện tính chất vật lý, hóa học, sinh học trong đất. Nguồn phân hữu cơ bao gồm phân chuồng, phân xanh và các nguyên liệu ép xanh. Sử dụng phân hữu cơ sinh học có thành phần chính: Chất hữu cơ >25%; N 2,5-3%; P205 0,3%; K20 1-1,3%; lượng bón 2,5 tấn/ha/năm. Có thể sử dụng phân chuồng ủ hoai 20 - 25 tấn/ha, bón 3 năm/lần. Phân hữu cơ bón vào đầu mùa mưa, rạch hàng, bón lấp.