Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Vàng trắng tới hồi lao đao

Vàng trắng tới hồi lao đao
Ngày đăng: 15/06/2015

Giá xuất khẩu giảm gần 28%

Tiếp nối điệp khúc giảm giá trị XK suốt vài năm trở lại đây, 5 tháng đầu năm, giá trị XK cao su giảm gần 3% so với cùng kỳ năm trước, đạt 475 triệu USD, trong khi đó với 330 nghìn tấn, lượng cao su XK lại tăng tới hơn 30%.

Theo Bộ NN&PTNT, điều đáng đề cập là, “bức tranh” XK cao su ngày một ảm đạm khi tính bình quân 4 tháng đầu năm giá XK chỉ đạt 1.248 USD/tấn, giảm gần 28% so với cùng kỳ năm 2014. Cao su Việt Nam vẫn chủ yếu XK sang Trung Quốc, Malaysia và Ấn Độ.

Trên thực tế, trong vài năm gần đây, giá cao su đã liên tục sụt giảm mạnh, từ mức khoảng 5.000 USD/tấn năm 2011 xuống mức hơn 1.200 USD/tấn như hiện nay. Giá mủ hiện đang ở mức rất thấp khiến người trồng muốn chặt bỏ cây cao su để trồng cây khác có lợi nhuận cao hơn. Tại huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước, mủ cao su dạng nước chất lượng 35 độ/kg hiện được thu mua với giá chỉ 6.400 đ/kg, trong khi cùng thời điểm này năm ngoái giá mủ ở mức khoảng 9.500 đ/kg.

Bà Trần Thị Thúy Hoa, Chánh văn phòng Hiệp hội Cao su Việt Nam đánh giá: Nhiều năm trước, giá cao su ở mức ngất ngưởng chỉ là mức giá “bong bóng” do nhu cầu lớn, giá bán được đẩy lên. Tuy nhiên, sau đó nhiều quốc gia đã đẩy mạnh trồng cao su, nguồn cung tăng vọt nên giá sụt giảm nhanh chóng. Theo bà Hoa, DN không nên chỉ nhìn nhận, so sánh với thời điểm mức giá cao dẫn đến quá “hụt hẫng”, chán nản mà phải nhìn vào giá trị thực tế của hàng hóa, duy trì sản xuất, tiêu thụ ở mức giá có lãi, chấp nhận được.

Tuy nhiên, bà Hoa cũng thừa nhận, hiện nay do thị trường thế giới cung vượt cầu quá lớn nên tính ra giá bán đang ngang bằng, thậm chí có thời điểm thấp hơn một chút dưới giá thành sản xuất khiến cả DN và người dân đều chật vật. Dự kiến, hết năm nay và thậm chí cả trong năm 2016, tình hình vẫn chưa có nhiều chuyển biến tích cực.

Trong bối cảnh khó khăn chung, Hiệp hội Cao su Việt Nam khuyến cáo DN và người dân cần nỗ lực, cố gắng đưa ra các tính toán hợp lý, “lấy ngắn nuôi dài” nhằm đợi chờ giá cao su ổn định. Đặc biệt, các hộ nông dân không nên vì giá cao su sụt giảm mà nhanh chóng phá cao su chuyển đổi sang các loại cây trồng khác.

Đổi cơ cấu sản phẩm xuất khẩu

Liên quan tới vấn đề làm thế nào gỡ khó cho ngành cao su nói chung, trong văn bản trả lời câu hỏi của các đoàn đại biểu Quốc hội đã được gửi tới từng đoàn trong phiên chất vất trước Quốc hội sáng ngày 11-6, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát cho biết: Bộ NN&PTNT cùng các địa phương đã và đang đẩy mạnh kiểm soát chất lượng nguyên liệu đầu vào, nâng cao chất lượng cao su sơ chế, đáp ứng các thị trường yêu cầu chất lượng cao; đồng thời chuyển đổi cơ cấu sản phẩm XK theo hướng nâng dần tỷ trọng chủng loại SVR 10, SVR 20 (cao su thiên nhiên chất lượng thấp, nhu cầu lớn), bởi hiện nay Việt Nam chủ yếu sản xuất, XK loại cao su SVR 3L chất lượng cao nhưng nhu cầu hạn chế hơn; tăng cường xúc tiến thương mại mở rộng và tìm kiếm các thị trường tiềm năng có nhu cầu lớn, giảm dần sự phụ thuộc vào một thị trường.

Bên cạnh đó, Bộ NN&PNTT cũng đang thúc đẩy liên kết với các nước sản xuất và XK cao su thiên nhiên lớn để phối hợp hành động nhằm tác động thị trường; có chính sách khuyến khích thu hút đầu tư phát triển ngành chế biến cao su trong nước, tăng tiêu thụ cao su nội địa, giảm NK các sản phẩm chế biến từ cao su.

Giá cả là bài toán “đau đầu” hơn cả với ngành cao su trong thời điểm hiện tại, do đó theo Bộ trưởng Cao Đức Phát, một trong những giải pháp quan trọng để gỡ khó cho ngành cao su mà Bộ hướng đến còn là tìm mọi cách giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành. Bộ chủ trương, đối với cao su kiến thiết cơ bản, có thể giảm đầu tư phân bón, diện tích nằm ngoài quy hoạch không phù hợp, cây sinh trưởng kém có thể chuyển đổi sang trồng cây khác có hiệu quả kinh tế cao hơn. Đối với những vườn cao su ở thời kỳ đang kinh doanh, bên cạnh giảm đầu tư phân bón là thay đổi chế độ cạo để giảm chi phí nhân công. Riêng với diện tích cao su kinh doanh tuổi lớn, khi giá gỗ phù hợp và giống cao su cho năng suất không cao có thể thanh lý để chuẩn bị cho trồng tái canh. Bộ NN&PTNT cũng khuyến khích các mô hình trồng xen nông lâm kết hợp đối với cây cao su để tăng thu nhập.

“Tăng cường tổ chức tuyên truyền, thông tin tình hình sản xuất, tiêu thụ, giá cả cao su về trung hạn và dài hạn, nâng cao nhận thức cho người trồng cao su nắm vững các giải pháp kỹ thuật, thực hiện tiết giảm chi phí, yên tâm tiếp tục duy trì và chăm sóc vườn cao su, đồng thời tổ chức liên kết người sản xuất (cao su tiểu điền) và các DN chế biến mủ cao su trên địa bàn để hỗ trợ trong sản xuất và thị trường tiêu thụ cũng là giải pháp quan trọng mà Bộ NN&PNTT đã và đang triển khai”, Bộ trưởng Cao Đức Phát khẳng định.


Có thể bạn quan tâm

Nuôi Ếch Mùa Lũ Lãi Khá Nuôi Ếch Mùa Lũ Lãi Khá

Ông Lưu Văn Phước, ở xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành – An Giang thả nuôi 7 vèo ếch Thái với diện tích trên 100m2 cho biết: Sau 3 tháng nuôi ếch đạt trọng lượng từ 200 – 300 gram/con, ông thu được 5.500 con ếch thịt bán với giá 25.000đ/kg, sau khi trừ hết chi phí lãi 32 triệu đ.

18/09/2014
Bình Định Củng Cố Và Phát Triển Mô Hình Đánh Bắt Cá Ngừ Đại Dương Xuất Khẩu Qua Nhật Bản Bình Định Củng Cố Và Phát Triển Mô Hình Đánh Bắt Cá Ngừ Đại Dương Xuất Khẩu Qua Nhật Bản

Chiều 15.9, tại TP Quy Nhơn, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định Lê Hữu Lộc đã chủ trì hội nghị bàn biện pháp củng cố mô hình khai thác cá ngừ đại dương (CNĐD) theo công nghệ Nhật Bản.

18/09/2014
“Bẫy” Mực Dưới Đáy Biển “Bẫy” Mực Dưới Đáy Biển

Nhiều lần đến với xã biển bãi ngang Vĩnh Thái, nơi tiếp giáp với địa phận tỉnh Quảng Bình về phía Bắc để tác nghiệp, chúng tôi đã biết được một số nghề đánh bắt hải sản mang tính thủ công ở đây như: Lặn biển bắt tôm hùm, bắn cá dưới đáy biển… Nhưng có một nghề cũng độc đáo không kém, đó là kiểu làm “nhà bẫy mực” dưới đáy biển!

18/09/2014
Phú Hòa (An Giang) Hội Thảo Mô Hình Nuôi Cá Sặc Rằn Trong Ao Đất Phú Hòa (An Giang) Hội Thảo Mô Hình Nuôi Cá Sặc Rằn Trong Ao Đất

Cá sặc rằn, còn gọi là cá rô tía da rắn hay cá rô tía Xiêm hay cá lò tho là một loài cá thuộc họ Cá tai tượng. Loài cá này là một món ăn quan trọng trong nền ẩm thực của nhiều nước, đồng thời nó cũng là một loài cá cảnh thông dụng.

18/09/2014
Định Hướng Phát Triển Cá Nước Lạnh Việt Nam Đến Năm 2020 Định Hướng Phát Triển Cá Nước Lạnh Việt Nam Đến Năm 2020

Đến năm 2020, Việt Nam phấn đấu đạt sản lượng 10.000 tấn cá nước lạnh (7.287 tấn cá tầm và 2.713 tấn cá hồi), đó là mục tiêu cơ bản của dự thảo Quy hoạch phát triển cá nước lạnh đến năm 2020. Mục tiêu này đã được đưa ra thảo luận tại Hội thảo góp ý Quy hoạch phát triển cá nước lạnh được tổ chức ngày 16/9/2014 tại Lâm Đồng

18/09/2014