Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Ương Tôm Hùm Giống Trong Lồng Đã Hiệu Quả Nhưng Khó Triển Khai

Ương Tôm Hùm Giống Trong Lồng Đã Hiệu Quả Nhưng Khó Triển Khai
Ngày đăng: 21/11/2014

Thành công của mô hình nuôi tôm hùm lồng tại Bình Định hứa hẹn mở rộng tại nhiều địa phương có lợi thế, nhưng hiện việc áp dụng vẫn còn khó khăn.

Hứa hẹn tại Bình Định

Bình Định là địa phương thực hiện hiệu quả việc ương tôm hùm giống bằng lồng. Năm 2013, việc nâng cấp tôm hùm lồng tập trung tại xã Nhơn Hải và phường Ghềnh Ráng, TP Quy Nhơn với tổng thể tích lồng ương 134,2 m3 (bằng 26,4% so với năm 2012), số lượng giống ương khoảng 61.500 con. Thể tích lồng ương tôm hùm giảm vì nguồn tôm giống khai thác từ tự nhiên khan hiếm, giá tôm giống tăng cao nên khả năng đầu tư của các hộ nuôi giảm.

Đến năm 2014, việc ương nâng cấp tôm hùm lồng tập trung tại xã Nhơn Hải, phường Ghềnh Ráng và xã Nhơn Châu. Hiện nay, các địa phương này có 116 hộ nuôi, thể tích lồng nuôi khoảng 922 m3 (tăng 587% so với cùng kỳ 2013, do khai thác tôm hùm giống được mùa, giá tôm giống phù hợp), số lượng giống thả ương 115.237 con. Đến nay, đã xuất bán 91.850 con, số còn lại phát triển bình thường.

Theo đánh giá ban đầu, kết quả của việc triển khai được thực hiện khá hiệu quả. Trong đó, tôm hùm giống phát triển trong điều kiện bình thường, sau 4 tháng ương đã cho tôm giống đạt khối lượng 120 - 140 g, tỷ lệ sống đạt 90%, thức ăn dành cho tôm là vẹm, tôm nhỏ… Với giá tôm giống hiện tại 450.000 đồng/con, khi xuất bán tôm giống các hộ nuôi có thu nhập khoảng 91.350 triệu đồng/lồng, trừ chi phí còn lãi 17,9 triệu đồng/lồng.

Việc thực hiện thành công mô hình này cho thấy hướng đi phù hợp trong việc hỗ trợ ngư dân xã đảo Nhơn Châu chuyển đổi từ nghề cũ đánh bắt, khai thác thủy sản gần bờ kém hiệu do nguồn cá tôm ngày càng cạn kiệt, chuyển sang nuôi thủy sản có hiệu quả hơn; qua đó giúp ngư dân phát triển sản xuất, tăng thu nhập.

Cần khảo sát cụ thể hơn

Theo lãnh đạo Trung tâm Khuyến nông Khuyến Ngư Bình Định, việc triển khai ương tôm hùm giống trong lồng đã bước đầu cho hiệu quả, được người nuôi hưởng ứng; nhưng nhìn chung việc triển khai còn hạn chế, mang tính tự phát, quy mô nhỏ lẻ… Hơn nữa, tình trạng thiếu con giống vẫn xảy ra, vốn đầu tư còn hạn chế.

Nhiều địa phương trong quá trình khai thác tôm hùm giống còn khai thác mang tính hủy diệt, làm cạn kiệt nguồn tôm hùm giống trong tự nhiên. Cho đến nay, Bình Định vẫn chưa có quy hoạch chi tiết cho việc phê duyệt đề án liên quan việc phát triển nguồn tôm hùm giống khai thác trong tự nhiên, quy hoạch nuôi…

Đại diện Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III cũng cho biết, hiện nay cả nước vẫn chưa có nghiên cứu đánh giá toàn diện mô hình ương tôm hùm giống, khảo sát quy hoạch chi tiết vùng chuyên ương con giống tôm hùm và những khảo sát điều kiện tự nhiên, thủy lý, thủy hóa, đặc trưng thành phần loài, thức ăn tự nhiên; nguồn thức ăn tươi khai thác tại địa phương nơi dự kiến triển khai mô hình… cũng chưa có.

Do vậy, để mở rộng ương nuôi tôm hùm giống, cần xem xét đặc trưng thành phần, chủng loại thức ăn tự nhiên, nguồn thức ăn tươi (tôm, cá, sò…) khai thác tại địa phương khác có phù hợp giống vùng ương tôm hùm giống ở Bình Định không; đồng thời, theo dõi tập quán, hiểu biết của người dân địa phương khác có khác biệt so với vùng ương giống tôm hùm ở Bình Định để từ đó quyết định có nên áp dụng mô hình hay không?

Yêu cầu kỹ thuật đối với việc thả nuôi tôm hùm, người nuôi nên chọn tôm giống có hình dáng cân đối, đủ các phần phụ, không trầy xước, thương tổn, có màu sắc tươi sáng tự nhiên, tôm khỏe mạnh, không mang mầm bệnh. Chọn giống có kích cỡ đồng đều, hoặc phân cỡ tôm để thả nuôi; tránh thả tôm có nhiều kích cỡ vào một lồng nuôi.

Đối với tôm trắng có thể thả mật độ 50 - 60 con/m2. Sau 60 ngày nên thả thưa tôm với mật độ 15 - 20 con/m2. Sau 90 - 100 ngày nên thả với mật độ 12 - 15 con/m2. Thời vụ thả nuôi thích hợp từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau. Tuy nhiên do tôm hùm giống rất nhạy cảm với sự biến động môi trường và thích nghi nhiệt độ không cao, người nuôi nên ương tôm trong thời điểm gió mùa đông bắc, nhằm tránh gây sốc cho tôm và đảm bảo tỷ lệ sống cao.

Để khắc phục khó khăn về con giống, người nuôi và các trung tâm khuyến nông khuyến ngư nên tích cực tuyên truyền về việc khai thác tôm hùm trong tự nhiên đúng quy hoạch, chủ động nguồn giống. Với những địa phương chuẩn bị thả nuôi tôm hùm, cần có nghiên cứu chi tiết, cụ thể.

Nguồn bài viết: http://www.thuysanvietnam.com.vn/uong-tom-hum-giong-trong-long-da-hieu-qua-nhung-kho-trien-khai-article-10045.tsvn


Có thể bạn quan tâm

Nghề Nuôi Ốc Hương “Một Vốn Bốn Lời” Ở Vũng Tàu Nghề Nuôi Ốc Hương “Một Vốn Bốn Lời” Ở Vũng Tàu

Với đặc điểm dễ nuôi, ít tốn thức ăn,nhanh thu hoạch, nghề nuôi ốc hương ở phường 12 (TP.Vũng Tàu) đã mang lại hiệu quả cao cho người nông dân. Tuy nhiên, tiềm năng đang bị bỏ ngỏ, khi mà diện tích và số hộ nuôi trồng của địa phương vẫn chưa được mở rộng.

05/11/2012
Triển Vọng Từ Mô Hình Nuôi Cá Kèo Trên Vuông Tôm Sản Xuất Mới Triển Vọng Từ Mô Hình Nuôi Cá Kèo Trên Vuông Tôm Sản Xuất Mới

Với lợi thế là địa phương giáp biển, lại có nguồn cá giống tự nhiên nên vài năm trở lại đây, thị xã Vĩnh Châu đã phát triển nhanh mô hình nuôi cá kèo trên vuông tôm.

08/11/2012
Một Mô Hình Trang Trại Nuôi Gà Đẻ Trứng Hiệu Quả Một Mô Hình Trang Trại Nuôi Gà Đẻ Trứng Hiệu Quả

Rộng khoảng 3 ha với tường rào bao quanh từ trước ra sau; có hệ thống nhà nuôi gà nối với nhau; có xưởng chế biến thức ăn, lò ấp; những ngôi nhà cấp 4 dành cho công nhân ở và sinh hoạt… là những điều kiện không phải trang trại chăn nuôi nào cũng đạt được như của trang trại nuôi gà đẻ trứng Trường Giang (thôn Đoàn Kết, xã Ea Tyh, huyện Ea Kar, Dak Lak).

22/06/2013
Trồng Khoai Tây Bằng Phương Pháp Làm Đất Tối Thiểu Ở Hưng Yên Lợi Gấp 2 Lần Trồng Khoai Tây Bằng Phương Pháp Làm Đất Tối Thiểu Ở Hưng Yên Lợi Gấp 2 Lần

Khoai tây là cây trồng trong vụ đông có năng suất ổn định và có giá trị kinh tế cao, là nguồn nguyên liệu quan trọng trong công nghiệp chế biến. Tuy nhiên, trong những năm gần đây diện tích trồng khoai tây có xu thế tăng chậm, nguyên nhân chính là nguồn lao động trong nông thôn ngày một giảm do chuyển sang kinh doanh dịch vụ hay đi lao động ở các ngành nghề khác. Mặt khác chi phí sản xuất trồng khoai tây thường cao, nhất là khâu làm đất, chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh. Đặc biệt, những năm gần đây nhiều hộ nông dân không dùng rơm rạ phục vụ đời sống dân sinh, rơm rạ cũng ít được sử dụng làm phân hữu cơ. Xuất phát từ thực tế đó, vụ đông năm 2011 Chi cục Bảo vệ thực vật (BVTV) Hưng Yên đã triển khai mô hình trồng khoai tây bằng phương pháp làm đất tối thiểu có che phủ rơm rạ, góp phần giải quyết những khó khăn trên.

09/11/2012
Gần 1.400 Hộ Tham Gia Bảo Hiểm Nông Nghiệp Gần 1.400 Hộ Tham Gia Bảo Hiểm Nông Nghiệp

Sau hơn 1 năm thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp (BHNN) về cây trồng, vật nuôi và thủy sản theo Quyết định 315 của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội đã bước đầu đạt được những kết quả đáng mừng...

22/06/2013