Ứng dụng vi khuẩn đông tụ vào xử lý nước thải chăn heo sau Biogas ở ĐBSCL

Đông tụ là sự kết dính giữa các tế bào vi khuẩn với nhau (cell to cell), dính với các hạt vô cơ, hữu cơ lơ lửng và các vi khuẩn khác trong môi trường tạo thành khối nhầy, bên ngoài là tế bào vi khuẩn, bên trong là các vật chất lơ lửng. Sự đông tụ góp phần tạo thành bùn hoạt tính hay giữ vai trò quan trọng trong quá trình hình thành màng sinh học trong ứng dụng xử lý nước thải.
Ứng dụng vi khuẩn đông tụ vào xử lý nước thải chăn heo sau Biogas ở ĐBSCL. Hình minh họa
Các nhà khoa học thuộc Viện Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ sinh học, trường Đại học Cần Thơ đã nghiên cứu ứng dụng bốn chủng vi khuẩn đông tụ vào xử lý nước thải trại chăn nuôi heo sau biogas với quy mô 08 lít trong phòng thí nghiệm, chọn cặp chủng vi khuẩn đông tụ tối ưu nhất để ứng dụng với quy mô lớn hơn (80 và 800 lit ở trại chăn nuôi heo để kiểm chứng hiệu suất đông tụ của các chủng vi khuẩn này trong nước thải; xác định được hiệu quả đông tụ và chất lượng nước sau xử lý của vi khuẩn đông tụ dựa trên các chỉ tiêu pH, BODS, TSS, TN, TP, N-NH4+, P-PO4- so với Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường QCYN 40:2011/BTNMT.
Kết quả ứng dụng 4 chủng vi khuẩn đông tụ (Bacillus cereus KG05, Bacillus megaterium VL01, Bacillus sp. VL05, Bacillus aryabhattai ST02) vào xử lý nước thải chăn nuôi heo sau biogas quy mô 08 lít trong phòng thí nghiệm cho thấy, sau 2 chu kỳ xử lý (31 giờ) hiệu suất đông tụ đạt 84 – 86%, chỉ số TSS (tổng chất rắn lơ lửng) giảm 40,5 lần so với đối chứng, hàm lượng BOD5 (độ oxy hóa sinh học) giảm 144,4 lần so với đối chứng, hàm lượng lân tổng (TP) <2 mg/1, hàm lượng amôni (N-NH4+) <3 mg/l, hàm lượng orthophotphat (P-P04-) <0,5 mg/1, các chỉ tiêu nghiên cứu đều đạt tiêu chuẩn loại A hoặc loại B theo QCVN40:2011/BTNMT. Cặp vi khuẩn Bacillus cereus KG05 + Bacillus megaterium VL01 được chọn ứng dụng vào xử lý nước thải chăn nuôi heo sau biogas quy mô 80 và 800 lít tại trại chăn nuôi heo. Kết quả cho thấy hiệu suất đông tụ cao nhất ở chu kỳ 2 đạt 90,4% (quy mô 80 lít) và 82,6% (quy mô 800 lít), chỉ số pH, TSS, TP, đạt loại A hoặc loại B theo QCVN40:2011/BTNMT; hàm lượng BOD5, TN, N-NH4+, P-P04- giảm hơn 50% so với nghiệm thức đối chứng.
Theo Tạp chí NN & PTNT- số 17, 2014
Có thể bạn quan tâm

Cũi đẻ cho lợn nái nhằm cách ly với nền chuồng, giảm hao hụt lợn con do bị đè, giảm tỉ lệ mắc bệnh đường ruột trước khi cai sữa, nâng cao số con sống trên ổ lúc cai sữa. Cũi úm cho lợn con sau cai sữa, để nuôi lợn con sau cai sữa (từ 30-60/75 ngày tuổi) đạt tỉ lệ sống cao, tăng trưởng nhanh.

Tuy nhiên nếu chủ quan lơi là, bệnh sẽ bùng phát. Bệnh cúm lợn là một bệnh đã xuất hiện từ lâu song người chăn nuôi thường ít chú ý, bệnh chưa trở thành dịch lớn song rất có thể nếu không chủ động áp dụng các biện pháp phòng thì bệnh sẽ xảy ra thành dịch làm ảnh hưởng lớn đến ngành chăn nuôi.

Nhằm giúp người dân lựa chọn loại vắc xin phù hợp để công tác phòng, chống dịch tai xanh có hiệu quả, Cục Thú y – Bộ Nông nghiệp và PTNT đã Công văn số 1989/TY-DT gửi Chi cục Thú y các tỉnh, thành phố xem xét, tham mưu cho tỉnh khuyến cáo lựa chọn vắc xin tai xanh để chống dịch lợn tai xanh.

“Tốt nái tốt một ớ, tốt đực tốt cả đàn”, kinh nghiệm này của nhân dân ta đủ thấy vai trò của công tác chọn giống trong chăn nuôi quan trọng như thế nào.

Công nghệ đệm lót sinh học, công nghệ ấu trùng ruồi đen và công nghệ giun đất được ra đời nhằm khắc phục điểm yếu của công nghệ biogas.