Trồng Lúa Lai Lãi Lớn

Với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng thuận lợi, cộng với trình độ thâm canh cao, mấy năm gần đây việc trồng lúa lai F1 của người dân ở huyện Tân Yên (Bắc Giang) cho thu nhập khá lớn.
Cấp tiền cho doanh nghiệp sản xuất lúa lai
Theo TS Nguyễn Như Hải (Cục Trồng trọt – Bộ NNPTNT), hiện diện tích trồng lúa lai thương phẩm của cả nước vào khoảng 700.000ha, góp phần tăng sản lượng lúa từ 700.000 - 1 triệu tấn/năm. Tuy nhiên, đến năm 2012, diện tích sản xuất giống lúa lai toàn quốc mới đạt 2.100ha, sản lượng gần 13.000 tấn, chỉ đáp ứng khoảng 20% nhu cầu giống của ND”.
TS Vũ Hồng Quảng – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu lúa (Đại học Nông nghiệp Hà Nội) cho biết: “Tại cuộc họp về định hướng sản xuất lúa lai năm 2012, Bộ NNPTNT đã đề ra mục tiêu đến năm 2015 nâng tổng diện tích lúa lai từ 2.100ha lên 5.000ha.
Theo đó, Nhà nước sẽ cấp tiền cho các doanh nghiệp nhà nước, kể cả doanh nghiệp tư nhân và đơn vị nghiên cứu khi mua bản quyền dòng mẹ từ nước ngoài về để sản xuất lúa lai F1 trong nước. Điều này cũng góp phần thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp và ND để trồng lúa lai F1, từ đó giúp bà con nâng cao thu nhập”.
Trao đổi với phóng viên NTNN, ông Nguyễn Quang Lượng – Phó Chủ tịch UBND huyện Tân Yên (Bắc Giang) cho biết, huyện có 11.344ha đất nông nghiệp, là nơi có truyền thống sản xuất lúa giống thuần nguyên chủng và siêu nguyên chủng, với diện tích hàng trăm ha mỗi năm.
“Năm 2011, Viện Nghiên cứu lúa đã khảo sát, nghiên cứu và nhận thấy Tân Yên là vùng đất phù hợp để sản xuất lúa lai F1 và ngay sau đó tại thôn Trám, xã Phúc Sơn chúng tôi đã cho triển khai trồng với diện tích 3,5ha, sử dụng giống Việt lai 24.
Năm đó, mô hình rất thành công nên năm 2012, tiếp tục thử nghiệm giống Việt lai 50 trên quy mô 4,6ha và giống LC 212, quy mô 21,3ha. Kết quả, năng suất lúa lai đạt bình quân 32 – 37 tạ/ha, có hộ đạt 40 tạ/ha, trừ chi phí lãi 2 – 2,5 triệu đồng/sào/vụ” – ông Lượng cho biết.
Đến nay, phong trào sản xuất lúa lai F1 ở Tân Yên đã phát triển khá rầm rộ, với diện tích hơn 50ha, chủ yếu sản xuất các giống lúa lai 2 dòng và 3 dòng như: Việt lai 50, LC212, GS9, nhị ưu 838, HYT 100…
Hướng đi mới cho người trồng lúa
Đến xã Việt Ngọc, hỏi ông Trần Công Việt, thôn Việt Hùng 2 ai cũng biết, bởi trong khi nông dân nhiều nơi phải bỏ ruộng vì cấy lúa không có lãi, thì ông lại đầu tư hàng chục triệu đồng thuê tới 3ha ruộng để sản xuất lúa lai. Ông Việt bảo: Làm nông quan trọng nhất là phải có đất. Chỉ cần có đất, biết cách làm ăn thì không sợ nghèo đói. “Sở dĩ tôi thầu tới 3ha để trồng lúa lai, vì thấy nghề này lãi hơn trồng lúa thuần.
Ông Nguyễn Văn Thơm – Trưởng thôn Trám cho biết: “Từ lúc chỉ có vài ha, đến nay thôn Trám có tới 17ha sản xuất hạt lúa lai F1, với gần 100 hộ tham gia. Trồng lúa lai đã và đang là hướng đi mới cho nông dân địa phương, góp phần nâng cao thu nhập”.
Như vụ chiêm xuân vừa qua, tôi cấy giống nhị ưu 838 cho Công ty TNHH Giống cây trồng Giang Nam, năng suất đạt 1,1 - 1,3 tạ hạt lai/sào, cộng với khoảng 70 - 80kg lúa bố. Hiện, hạt giống lai công ty mua với giá 25.000 đồng/kg, còn lúa thịt mua 6.000 đồng/kg, trừ chi phí tôi lãi 2,3 – 2,5 triệu đồng/sào” – ông Việt phấn khởi tâm sự.
Theo ông Việt, sản xuất lúa lai F1 đòi hỏi kỹ thuật cao hơn lúa thịt, bởi lúa lai đòi hỏi cách ly tốt, tránh lai tạp. Để có hạt giống tốt, ngoài cấy muộn hơn lúa thịt, ông còn dùng nylon che xung quanh ruộng để tránh phấn lúa bay. “Thời gian thụ phấn của cây lúa rất ngắn nên tôi phải thường xuyên có mặt trên đồng. Canh lúa thụ phấn như canh “vợ đẻ” vậy” – ông Việt vui vẻ nói.
Tương tự, ông Nguyễn Duy Hiển ở thôn Thể Hội, xã Việt Ngọc cũng là một trong những ND liên tục thu lợi nhuận cao nhờ trồng lúa lai F1. Vụ chiêm vừa rồi, ông chỉ cấy hơn 1 mẫu ruộng, song vẫn lãi trên 20 triệu đồng. “Trước đây, tôi cấy lúa thuần, trừ hết chi phí chỉ lãi vài trăm ngàn đồng/sào, vụ nào thời tiết bất thuận còn bị lỗ. 2 năm nay tham gia sản xuất lúa lai, tôi mới được cầm đồng tiền dôi” – ông Hiển thật thà cho biết.
Có thể bạn quan tâm

Tuy nhiên, do phát triển tự phát, tôm sú lại là loài mẫn cảm với thời tiết nên hiệu quả sản xuất giảm dần. Từ năm 2006 trở lại đây, một số đối tượng nuôi mới được đưa vào khảo nghiệm, trong đó cá bống bớp đã dần khẳng định giá trị, tính phù hợp và được coi là đối tượng chủ lực trong nuôi trồng thủy sản của huyện. Đặc biệt mô hình nuôi cá bống bớp thả xen tôm sú cho hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn.

Kể từ ngày 10/02/2015, các cơ sở nuôi trồng thủy sản nhỏ lẻ thuộc phạm vi quản lý của Bộ Nông nghiệp và PTNT cần phải thực hiện các điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm theo quy định tại Thông tư số 51/2014/TT-BNNPTN.

Theo Thông tư, việc thực hiện điều tra, khảo sát và tổng hợp số liệu điều tra, khảo sát để xác định chi phí sản xuất, tính giá thành cá tra nguyên liệu thực tế phải dựa trên những nguyên tắc: Trình độ và điều kiện sản xuất; Tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất thực tế của các cơ sở nuôi cá tra;

Theo thống kê của Cục thống kê tỉnh Sóc Trăng, giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản 2014 (theo gia hiện hành) của tỉnh là 42.261 tỷ đồng, tăng 9,7% so với năm 2013. Trong đó riêng trong lĩnh vực thủy sản chiếm 35,37% giá trị toàn ngành với tổng diện tích thả nuôi là 68.400 ha, đạt 100,6% kế hoạch trong đó tôm nước lợ là 53.096 ha.

Trong không khí rộn ràng đón mừng xuân mới Ất Mùi, với nhiều câu chuyện vui buồn trong sản xuất - đời sống năm qua, bà con nông dân sẽ không quên bàn luận nhiều vấn đề về nuôi trồng thủy sản và mơ ước có được những vụ tôm nuôi thành công, đạt hiệu quả kinh tế cao trong năm 2015.