Trồng chè theo quy trình sạch hướng đi bền vững

Trong hoàn cảnh đó, mô hình sản xuất chè sạch cho năng suất cao theo hướng VietGAP ở xã Hùng Sơn lại phát huy hiệu quả, đáng để các địa phương nghiên cứu, nhân rộng để nâng cao sức cạnh tranh cho cây chè.
Đến xã Hùng Sơn (Anh Sơn), chứng kiến những đồi chè bạt ngàn xanh mới thấy được sự nỗ lực phát triển vùng chè nguyên liệu của nhân dân nơi đây. Đặc biệt, với sự hỗ trợ của dự án trồng chè theo quy trình VietGAP đã mở ra trên vùng đất này một hướng đi mới, tạo bước ngoặt kinh tế cho người trồng chè. Từ 10 ha chè trồng thử nghiệm theo hướng chè “sạch” trải dài dọc theo Khe Giát, Cồn Tít tốt tươi mang lại nguồn lợi kinh tế lớn đã thôi thúc xã Hùng Sơn tìm được hướng đi mới cho cây chè trên thị trường. Sau 12 năm, giờ đây Hùng Sơn đã có 304 ha chè sản xuất theo hướng VietGAP với thị trường tiêu thụ rộng lớn.
Tại đồi chè Quang Tiến (xóm 5), diện tích chè 1,5 ha của ông Võ Văn Đông được xem là lâu đời nhất vùng Hùng Sơn. Tranh thủ những ngày thời tiết dịu mát, gia đình ông tiến hành thu hoạch chè, đây là lần thu hoạch đầu tiên sau đợt nắng lịch sử. Ông chia sẻ: “Mỗi năm người trồng chè thu hoạch 6 đợt, thu nhập bình quân mỗi ha chè trong một năm xấp xỉ 80 triệu đồng. Đợt này do nắng hạn nên năng suất giảm khoảng 30%, sản lượng chỉ đạt 6 tấn búp tươi, trong khi những lần trước phải trên 9 tấn. Trước đây khi áp dụng hình thức canh tác chè theo phương thức truyền thống năng suất chè của gia đình không cao, mặt khác chi phí đầu tư cũng khá tốn kém hơn nhiều. Từ khi áp dụng sản xuất theo hướng VietGAP, năng suất chè đã cao hơn nhiều so với các địa phương lân cận. Nhờ chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật, cây chè khỏe mạnh và có sức chống chọi cao với những biến đổi của thời tiết”.
Sản xuất chè theo hướng VietGAP người nông dân cần phải tuân thủ những nguyên tắc “bất di bất dịch” để đảm bảo cho cây chè “sạch” bệnh và không có tồn dư các chất hóa học. Trước đây, việc phòng trừ bệnh cho cây chè chỉ được tiến hành khi xuất hiện sâu hại thì giờ đây bà con đã thay đổi nhận thức, bởi muốn phòng bệnh cho cây chè điều cốt yếu phải xuất phát từ nội tại của cây, nếu làm tốt từ khâu chọn giống, bón thúc, chăm sóc để cây chè phát triển tốt nhất thì cây có thể miễn nhiễm với sự biến đổi của môi trường. Trong những ngày nắng nóng vừa qua, nhiều địa phương chè chết trắng đồi, nhưng nhiều hộ nơi đây chỉ thiệt hại khoảng 30 - 40%. Đối với việc bón phân cũng không còn tùy tiện như trước, bà con đã theo một quy trình nhất định.
Trong những năm qua, cây chè ở huyện Anh Sơn đã dần khẳng định được chỗ đứng ổn định. Cuộc sống của những hộ dân trồng chè đang khá dần lên, có nhiều gia đình giàu lên nhờ cây chè. Một gia đình nếu có 5 sào chè 1 lứa thu hoạch đã có 2 tấn búp. Mỗi năm thu hoạch ít nhất 6 lứa, được 12 tấn, giá chè 3.600 đồng/kg, cho thu nhập khoảng 43 triệu đồng, là nguồn thu nhập rất ổn định, còn khi giá chè cao hơn thì thu nhập càng cao hơn. Ở Hùng Sơn, thuận lợi là có Xí nghiệp chế biến chè nằm trong vùng nguyên liệu chè, từ đó đã giải quyết đầu ra 100% sản phẩm chè búp cho nông dân.
Ông Nguyễn Hữu Quý, Phó Giám đốc Xí nghiệp chế biến chè chia sẻ: “Sản phẩm chè ở một số nơi đầu tư phân bón chưa đúng mức và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật còn tùy tiện. Do vậy năng suất chè còn thấp và chưa đảm bảo các tiêu chí về an toàn thực phẩm. Để khắc phục những hạn chế trên thì việc áp dụng đồng bộ quy trình sản xuất chè theo hướng Vietgap là hết sức cần thiết. Điều này đòi hỏi các hộ dân phải ghi chép nhật ký sản xuất thật chi tiết và là cơ sở để chứng minh người dân thực hiện đúng quy trình, sản phẩm chè đảm bảo chất lượng. Hiện tại, sản phẩm chè nơi đây đã được tiêu thụ rộng rãi trên nhiều tỉnh, thành trong cả nước, thậm chí còn được xuất khẩu sang một số nước lân cận như Trung Quốc, Thái Lan… Hiện tại, Xí nghiệp chè Hùng Sơn đang hướng đến mở rộng diện tích chè sản xuất theo hướng VietGAP ra 2 xã Đức Sơn và Cẩm Sơn với diện tích 300 ha”.
Đề cập hướng sản xuất chè theo quy trình VietGAP, ông Nguyễn Công Thế, Trưởng phòng NN&PTNT huyện cho biết: “Năm 2011, Sở Khoa học & Công nghệ đã hỗ trợ kinh phí để triển khai Dự án “Hỗ trợ mô hình sản xuất và chế biến chè theo hướng VietGAP tại huyện Anh Sơn”. Mục tiêu của dự án là xây dựng thành công mô hình sản xuất chè nguyên liệu theo hướng VietGAP, quy mô 10 ha. Đến nay mô hình đã được nhân rộng trên 300 ha trong tổng gần 600 ha vùng chuyên canh gồm vùng trồng chè và đạt được những bước tiến nhất định.
Mô hình đã tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận và áp dụng tốt các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất chè nhằm tăng năng suất, hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, tạo ra sản phẩm sạch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường, góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người sản xuất, đồng thời hạn chế ô nhiễm môi trường. Để hỗ trợ bà con, phòng Nông nghiệp huyện Anh Sơn đã đứng ra tham mưu, tổ chức, hướng dẫn bà con nông dân áp dụng khoa học kỹ thuật trong hoạt động sản xuất, canh tác, tìm kiếm thị trường... Mục tiêu nhằm khẳng định chất lượng nông sản của địa phương, trên cơ sở đó mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm”.
Có thể bạn quan tâm

Áo thôi ướt đẫm mồ hôi, chân tay cũng không còn bị xi măng bám chặt, ông Bùi Văn Hoàng, ở thôn 1, xã Nghĩa Dõng (TP.Quảng Ngãi) hiện nay chỉ cần bỏ ra khoảng 1 giờ mỗi ngày để thu hoạch nấm bào ngư. Cười tươi rói bên trại nấm bào ngư và nấm linh chi đang đến kỳ thu hoạch, ông Hoàng bộc bạch: “Trước làm phụ hồ, cả ngày vất vả mà thu nhập chỉ khoảng 200 nghìn. Còn giờ, mới nửa tháng thu nấm sò, tôi đã bỏ túi 6 triệu đồng”.

Cà phê là loại cây trồng chủ lực của tỉnh nhưng những năm qua, nhiều hộ đã thay trồng loại cây khác cho kinh tế cao hơn. Tuy nhiên, vẫn không ít hộ thành công nhờ thực hiện mô hình cà phê ghép, trong đó có hộ ông Nguyễn Văn Tằm ở thôn 2, xã Long Bình (Bù Gia Mập - Bình Phước).

Mưa lớn liên tục trong khi mương thoát nước bị thu hẹp khiến hàng trăm công lúa thu đông trong tiểu vùng ấp Ninh Thạnh (xã An Tức, Tri Tôn, An Giang) đổ ngã, một phần bị hư hỏng do chìm trong nước. Bên cạnh khẩn trương rút nước để nông dân thu hoạch lúa, việc đầu tư thêm trạm bơm và nạo vét mương nội đồng mới là giải pháp lâu dài.

Dự án Di dân vùng thiên tai có nguy cơ sạt lở đất núi, xã Văn Lăng là dự án xây dựng công trình công cộng, có nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Do vậy, kinh phí trồng rừng thay thế được lấy từ ngân sách Nhà nước đầu tư cho Kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011-2020. Sở Nông nghiệp và PTNT đã được tỉnh giao xây dựng kế hoạch trồng rừng thay thế thuộc dự án theo kế hoạch trồng rừng sản xuất năm 2015 của tỉnh.

Tại mỗi vùng, Liên Thảo đều cử kỹ sư “nằm đồng” giám sát và trực tiếp chỉ đạo người dân SX. Trước khi thu hoạch 1-2 ngày, rau sẽ được test lưu động hoặc tại phòng thí nghiệm, đảm bảo kiểm soát dư lượng thuốc BVTV, vi sinh vật gây hại... Mỗi sản phẩm của Liên Thảo trước khi đưa ra thị trường đều được dán tem chứng nhận xuất xứ (C/O) và chứng nhận chất lượng (C/Q) theo tiêu chuẩn của Liên Thảo.