Triển vọng với mô hình nuôi bò thịt

Tham gia dự án, từ 64 con bò giống, các hộ chăn nuôi đã cung cấp cho thị trường 144 con bò thịt thương phẩm và nhiều sản phẩm nông nghiệp khác từ mô hình này.
Để đảm bảo hộ chăn nuôi có được giống bò tốt, chủ nhiệm dự án đã chọn những giống bò chất lượng cao là bò lai Sind và lai Brahman để người dân chăn nuôi. Nhờ sự hướng dẫn này mà đàn bò nuôi thuộc dự án ít xảy ra dịch bệnh và phát triển rất tốt. Bên cạnh đó, hộ nuôi bò còn được hỗ trợ vay vốn ngân hàng với số tiền 7 triệu đồng/con và hỗ trợ lãi suất trong suốt thời gian tham gia dự án.
Ông Hồ Văn Sơn, chủ nhiệm dự án, cho biết: “Trước khi triển khai dự án, chúng tôi đã lựa chọn hộ nuôi kỹ càng, nguồn vốn cho vay ưu đãi nhất để thực hiện dự án. Từ nguồn vốn hỗ trợ của kinh phí sự nghiệp khoa học với số tiền hơn 146 triệu đồng, kết hợp với vốn nông hộ đầu tư, mỗi hộ trong vùng dự án được vay vốn nuôi ít nhất 3 con bò. Dự tính ban đầu của dự án triển khai nuôi bò thịt, thế nhưng nhiều hộ nuôi đã nhận ra lợi nhuận từ việc cung cấp bò giống và phát triển dần đàn bò lên hơn trăm con. Nhờ vậy khi đến kỳ hạn kết thúc dự án, nhiều hộ đã có bò mẹ đẻ bò con, lợi nhuận tăng gấp bội. Nguồn vốn vay nông dân trả hết và còn tự tạo điều kiện tái đầu tư cho lứa nuôi khác”.
Sau thời gian tham gia dự án, đối với nhiều hộ thì mô hình đem lại kết quả hơn cả mong đợi. Chị Nguyễn Ngọc Thủy, ở xã Hiệp Hưng, cho hay: “Hồi đó, tính nuôi bò để tận dụng thời gian rảnh làm kinh tế phụ, bỏ ống lâu ngày nhưng không ngờ lại khá lên trông thấy. Tôi nuôi giống bò thịt này được thương lái mua giá cao, trúng lớn. Mỗi con tôi bán ra thu lời gần gấp đôi chỉ sau 1 năm chăn nuôi”. Bây giờ, chị Thủy đã nhân giống ra bò con, tiếp tục chăn nuôi để làm giàu bởi chị đã đầu tư luôn hơn 2 công đất trồng cỏ cho bò ăn.
Hiệu quả lớn nhất mà dự án mang lại là cho ra nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế bằng cách kết hợp với nuôi bò, người dân có thể trồng cỏ theo ven bờ đê hoặc ruộng để chủ động nguồn thức ăn cho bò. Trong dự án có 10/14 hộ tham gia cách làm này trồng hơn 7,6m2, áp dụng theo quy trình kỹ thuật rất bài bản đã tạo ra được nguồn thức ăn tươi, sạch, đủ dưỡng chất cho bò.
Trong chăn nuôi bò bán chăn thả, người dân còn tận thu được phân bò để bón vào ao, tăng nguồn thức ăn tự nhiên cho cá. Qua dự án, có 2 hộ thực hiện mô hình này, với diện tích 1,9ha nuôi cá rô phi, cá chép, cá mè hoa thu được sản lượng cá 2,1 tấn sau 2 đợt nuôi. Ông Nguyễn Văn Ba, ở ấp Phương Quới B, xã Phương Bình, cho biết: “Thằng cháu tôi nó nuôi cá bằng phân bò thấy mà ham, còn tôi không làm được nhưng mà cũng thu lời to nhờ phân bò. Tôi được cán bộ dự án hướng dẫn ủ thành phân hữu cơ bón lại cho ruộng, vườn cây rất tốt. Số còn dư tôi bán ra cũng kiếm được số tiền kha khá”.
Theo báo cáo của chủ nhiệm dự án, lợi nhuận nuôi bò không chỉ dừng lại ở việc giảm số lượng lao động nhàn rỗi mà còn mang lại hiệu quả kinh tế rất nhiều. Trừ các khoản chi phí gồm chuồng trại, con giống, thức ăn, thuốc thú y, gieo tinh, công lao động,… trên 1,9 tỉ đồng, 14 hộ chăn nuôi đã thu lợi nhuận trên 1 tỉ đồng. Trung bình 1 con bò đạt lợi nhuận từ 8-10 triệu đồng sau 1 năm thả nuôi.
Với kết quả lợi nhuận kinh tế này, mô hình chăn nuôi bò bán chăn thả sẽ là mô hình triển vọng trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo của địa phương. Theo ý kiến nhiều chuyên gia ngành nông nghiệp tại buổi họp nghiệm thu kết quả dự án, mô hình này rất phù hợp với tập quán chăn nuôi ở địa phương, kỹ thuật chăn nuôi đơn giản và có thể nhân rộng mô hình trong tương lai. Mô hình nuôi bò thịt ở Phụng Hiệp sẽ không chỉ là lựa chọn đúng đắn và hướng đi hiệu quả của địa phương trong thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng theo hướng hiệu quả và bền vững cho huyện Phụng Hiệp nói riêng và tỉnh Hậu Giang nói chung.
Có thể bạn quan tâm

Đề án Thí điểm tổ chức khai thác, thu mua, chế biến, tiêu thụ cá ngừ theo chuỗi tại 3 tỉnh Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa nhằm khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững nguồn lợi cá ngừ đại dương, hài hòa lợi ích cho các bên tham gia trong chuỗi từ khai thác, thu mua, chế biến, tiêu thụ với tinh thần chung là sẽ tập trung nguồn lực để thúc đẩy phát triển ngành cá ngừ, tạo ra liên kết chặt chẽ theo chuỗi giữa các khâu, đảm bảo giá trị kinh tế.

Mức giá hồ tiêu đầu năm 2014 tưởng được coi là kỷ lục với 145 ngàn/kg, nhưng đến tháng 7 còn lên tới 190 ngàn/kg. Giá tiêu càng hấp dẫn, nhiều nhà vườn càng chạy đua trồng tiêu.

Nếu lấy mốc thời gian năm 1996 (thời điểm Công ty Agifish xuất khẩu container cá basa đầu tiên vào thị trường Mỹ) để đề cập đến quá trình phát triển của một sản phẩm quốc gia thì đến nay, nghề nuôi và chế biến cá tra xuất khẩu ở ĐBSCL đã “ngót nghét” gần 20 năm. Trong quãng thời gian ấy, có hàng chục ngàn người làm giàu một cách nhanh chóng, nhà máy chế biến thủy sản ra đời như “nấm mọc sau mưa”.

Từ chỗ toàn ngành chỉ XK được 11 triệu USD, không đủ cho việc nhập vật tư thiết bị cho SX trong nước, đến nay đã XK khoảng 6,5 tỷ USD; từ chỗ cả ngành nuôi trồng và khai thác thủy sản chỉ cung cấp được 600.000 tấn thủy hải sản cho nhu cầu tiêu dùng nội địa, đến nay đã SX trên 3 triệu tấn.

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông lâm ngư (KNLN) Thừa Thiên Huế Bùi Thị Hải Yến cho biết, gần đây đơn vị thực hiện nhiều mô hình nuôi trồng thủy sản xen ghép mang lại hiệu quả khả quan. Mô hình nuôi tôm sú-rong câu trong ao nước lợ thực hiện thí điểm trong năm 2014 mang lại kết quả như mong đợi. Ưu điểm của mô hình là giãn khoảng cách vụ nuôi, tác động tương hỗ giữa thực vật (rong biển) và động vật (tôm) đến môi trường, hạn chế tối đa dịch bệnh và mang lại lợi nhuận cao.