Tôm sú chiếm 50% tổng xuất khẩu tôm sang Australia

8 tháng đầu năm nay, XK thủy sản từ Việt Nam sang Australia đạt gần 115 triệu USD trong đó tôm chiếm gần 63% tổng lượng XK thủy sản của Việt Nam sang thị trường này.
XK tôm Việt Nam sang Australia trong 8 tháng đầu năm nay đạt 72,7 triệu USD, giảm 24,2% so với cùng kỳ năm 2014 và chiếm 4% tổng XK tôm của Việt Nam.
Mặc dù XK tôm sang thị trường này giảm theo xu hướng giảm chung của NK tôm thế giới nhưng Australia vẫn là thị trường tiềm năng đối với tôm Việt Nam.
Trong nhiều năm qua, Australia luôn nằm trong nhóm 10 thị trường NK tôm hàng đầu của Việt Nam.
Australia đứng thứ 7 về NK tôm của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm nay sau Mỹ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc, Hàn Quốc và Canada.
Tôm sú là sản phẩm XK chủ yếu của Việt Nam sang Australia. 8 tháng đầu năm 2015, XK tôm sú sang thị trường này đạt gần 36 triệu USD, chiếm 50% tổng XK tôm của Việt Nam sang thị trường này trong khi cùng kỳ năm ngoái tôm sú chiếm tỷ trọng 63%.
7 tháng đầu năm 2015, Việt Nam dẫn đầu về XK tôm sang Australia, chiếm gần 32% tổng NK tôm vào thị trường này.
Trung Quốc và Thái Lan lần lượt đứng thứ 2 và thứ 3 với 29% và 20%.
Thị trường Australia chủ yếu NK tôm đông lạnh nguyên liệu (mã HS 030617) với 102,6 triệu USD trong 7 tháng đầu năm nay, chiếm 64% tổng NK tôm vào thị trường này.
Tôm chế biến đông lạnh (mã HS 160521 và 160529) đứng thứ 2 với 56,8 triệu USD; chiếm 35% tổng NK tôm vào thị trường này.
Tính tới tháng 7 năm nay, đối với sản phẩm tôm đông lạnh NK vào Australia, Việt Nam chiếm 21,5% thị phần, Trung Quốc 37%.
Tuy nhiên, đối với sản phẩm tôm chế biến, Việt Nam giữ ngôi vị quán quân với thị phần áp đảo 50,2%, trong đó sản phẩm tôm chế biến đóng hộp kín khí chiếm tỷ trọng chi phối 62,6%, tôm chế biến không đóng hộp kín khí chiếm 43% thị phần.
XK tôm nguyên liệu và chế biến của Trung Quốc (đối thủ cạnh tranh chính của Việt Nam) sang Australia đều giảm mạnh trên 50%. Việt Nam có thể tận dụng cơ hội này để mở rộng thị phần trên thị trường Australia.
Tuy nhiên, tôm chế biến của Việt Nam lại phải cạnh tranh mạnh hơn với Thái Lan do thị phần tôm chế biến của nhà cung cấp này đang tăng trên thị trường Australia.
Trong 7 tháng đầu năm nay, giá XK tôm của Việt Nam sang Australia khá cạnh tranh so với Trung Quốc và Thái Lan. Tuy nhiên, sự khác biệt về giá giữa các nước cung cấp tôm cho Australia không lớn.
Chính điều này lại tạo ra sức ép cho các nhà XK tôm Việt Nam trong bối cảnh chi phí sản xuất tại Việt Nam liên tục tăng.
Do nhu cầu lớn nên Australia là một trong những thị trường hấp dẫn cho XK tôm Việt Nam. Tuy nhiên, thị trường Australia đòi rất cao về các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật, nguồn gốc hàng hóa, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, uy tín thương hiệu.
Bên cạnh đó, các DN Việt Nam cũng nên tìm hiểu kỹ kênh phân phối tại Australia để khi hàng hóa đưa vào sẽ được lưu thông thuận lợi.
Ngoài việc tận dụng triệt để các mức ưu đãi thuế quan từ FTA, việc đảm bảo hơn nữa an toàn vệ sinh thực phẩm cũng như cải thiện chất lượng và mẫu mã sản phẩm sẽ giúp thủy sản Việt Nam nói chung và các sản phẩm tôm nói riêng tiến xa hơn trên thị trường Australia.
Có thể bạn quan tâm

Theo Phòng NN-PTNT huyện Đơn Dương (Lâm Đồng), đến nay, tổng đàn bò sữa trên địa bàn huyện lên đến gần 5.380 con, trong đó bò sữa nuôi trong hộ gia đình gần 3.610 con; bò sữa nuôi trong các doanh nghiệp là 1.770 con (Vinamilk 820 con, Dalatmilk 500 con và Agrivina 450 con), năng suất sữa trung bình khoảng 20 lít/con/ngày, tổng sản lượng sữa đạt 6 tấn/con với chu kỳ 10 tháng trong năm.

Nguyên nhân giá tôm thẻ giảm nhẹ trong khoảng một tuần nay được giới kinh doanh nhận định là do nhiều thương lái Trung Quốc đã rút khỏi địa bàn. Cũng có thông tin cho rằng, giá tôm giảm nhẹ còn có nguyên nhân do Indonesia bắt đầu vào vụ thu hoạch tôm, với sản lượng được dự đoán là khá cao.

Vòng đời từ khi trồng cho đến lúc kết thúc khai thác mủ của cây cao su khoảng 30 năm. Do vậy, trồng cao su trên vùng đất miền Trung thường xuyên bị thiên tai là tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, nguy cơ nông dân trắng tay là rất lớn nếu không biết cách canh tác bền vững.

Cho dê con trước khi cai sữa (3 tháng tuổi) và dê mẹ sau khi phối giống 5-6 tuần uống thuốc levamisole phòng bệnh giun tròn. Không cho dê ăn cỏ lá vùng ngập nước, dùng dextrin-B phòng định kỳ và điều trị với dê đã mắc bệnh.

Dê thuộc loại nhai lại, tạp ăn. Dê dễ nuôi, sinh sản nhanh, chống đỡ bệnh tật tốt, đầu tư vốn ban đầu ít, hiệu quả kinh tế cao, thời gian thu hồi vốn nhanh.