Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Tôm Chết, Người Nuôi Tôm Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long Lao Đao

Tôm Chết, Người Nuôi Tôm Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long Lao Đao
Ngày đăng: 16/04/2014

Tính đến cuối tháng 3-2014, chỉ riêng 3 tỉnh ven biển đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là Cà Mau, Sóc Trăng và Trà Vinh đã có trên 5.000 héc ta tôm nuôi bị thiệt hại. Tỉnh Sóc Trăng bị nặng nhất với hơn 30% diện tích tôm thả nuôi đã thất bại hoàn toàn.

Nắng nóng, tôm chết

Diện tích tôm nuôi ở Sóc Trăng bị thiệt hại trong quý 1 đã vượt con số 2.300 hécta. Hàng ngàn chòi canh tôm nằm rải rác ở các vùng nuôi vừa mới xôn xao ngày thả giống hôm nào, giờ trở nên trống vắng. Tại thị xã Vĩnh Châu, tình trạng tôm chết đã xảy ra trên 1.600 héc ta ao nuôi, làm cho nhịp sống tại đơn vị hành chính cấp thị xã này chậm lại đôi phần.

Chủ nhiệm Hợp tác xã nuôi tôm Mỹ Thanh, ông Nguyễn Văn Nhiệm nói buồn, “hơn phân nửa diện tích tôm nuôi ở Vĩnh Châu hồi năm ngoái chết thành dịch, thiệt hại ước khoảng trên 110 tỉ đồng. Năm nay người nuôi làm ao đàng hoàng, chăm sóc kỹ lưỡng hơn nhưng tôm cũng đã chết trên 1.600 héc ta.”

Cùng thời điểm nêu trên, hơn 2.200 héc ta tôm của nông dân tỉnh Cà Mau cũng chết lần chết hồi, khi tiến độ thả tôm giống mới đạt được hơn 25.200 héc ta. Còn tại tỉnh Trà Vinh, hơn 1.800 héc ta tôm thẻ vừa thả con giống trong ba tháng nay, diện tích tôm chết lũy kế đã gần 320 héc ta (hơn 17%), tính tới cuối tháng 3.

Nguyên nhân tôm chết được các nhà quản lý, cơ quan nghiên cứu nhận định: ĐBSCL đang trong đợt cao điểm nắng nóng của mùa khô, chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm khá lớn, môi trường vùng nuôi ô nhiễm với nhiều mức độ khác nhau… Chung qui lại, tôm chết được xác định do các bệnh đốm trắng, hoại tử gan tụy (hội chứng chết sớm – PV).

Biện pháp cứu vãn của các nhà quản lý đưa ra trong lúc này - cũng giống như bao lần trước, là yêu cầu người nuôi tôm xử lý tốt môi trường vùng nuôi đã nhiễm dịch hại; tuân thủ nghiêm ngặt lịch thời vụ của từng địa phương; kiểm tra chất lượng con giống trước khi chọn và chỉ nên thả tôm giống theo các chỉ tiêu môi trường ao nuôi được khuyến cáo.

Từng là tỷ phú phất lên từ nghề nuôi tôm ở xã Mỹ Long Nam (Cầu Ngang, Trà Vinh), ông Hồ Văn Tâm cho rằng, muốn nuôi tôm ít nhất phải đảm bảo 4 yếu tố quan trọng: nhất giống (con giống), nhì môi (môi trường), tam mồi (thức ăn nuôi), tứ quản (quản lý điều kiện nuôi).

Tuy nhiên, khi phong trào nuôi tôm phát triển, các yếu tố đầu vào lần lượt được người nuôi kiểm soát tốt. Riêng “hạ tầng về nguồn cung cấp điện, thủy lợi - điều kiện nuôi, nằm ngoài khả năng chủ động của nông dân nên trở thành nhu cầu bức thiết, đặc biệt là trong giai đoạn giao mùa,” ông Tâm nói.

Thiếu điện làm tăng chi phí, nguy cơ

Tính trên đơn vị “một héc ta nuôi tôm thẻ với mật độ thả giống từ 50 con/mét vuông trở lên, chạy hai giàn quạt cả vụ nuôi tốn chi phí hơn 100 triệu đồng, nếu sử dụng máy dầu. Trong khi đó, nếu sử dụng động cơ điện chỉ tốn khoảng 40 triệu đồng,” ông Bùi Hoàng Anh, người nuôi tôm ở ấp Hòa Muôn, xã Ngọc Tố, (Mỹ Xuyên, Sóc Trăng) nhẩm tính.

Với lợi ích được so sánh như vậy, năm ngoái vùng nuôi tôm ấp Hòa Muôn tổ chức đăng ký nhu cầu điện phục vụ nuôi tôm theo yêu cầu của ngành điện Sóc Trăng. Cuối cùng, “ngành điện Sóc Trăng đã từ chối đầu tư lưới điện phục vụ nhu cầu này với lý do thiếu khả năng tài chính,” ông Hoàng Anh thất vọng.

Chủ tịch UBND xã Ngọc Tố, ông Võ Văn Chồi, cho biết điện phục vụ vùng nuôi tôm trong xã hiện chủ yếu dựa vào nguồn điện phục vụ sinh hoạt.

Chính vì vậy, theo ông Hoàng Anh, nắng gay gắt trong mùa nắng nóng, ao tôm nào cũng cần chạy quạt thường xuyên nên tình trạng quá tải, cúp điện xảy ra liên tục. Đối phó với thực tế đó, người nuôi tôm phải trang bị cho mỗi giàn quạt một động cơ điện, kèm thêm một máy dầu dự phòng.

Con tôm vốn mẫn cảm với các thay đổi đột ngột của môi trường xung quanh, nên người nuôi dù đã trang bị máy dầu dự phòng cũng khó bề yên tâm. Theo ông Phạm Văn Hải, người nuôi tôm ở xã Mỹ Long Nam (Cầu Ngang, Trà Vinh), nếu nuôi tôm sú, hệ thống quạt phải hoạt động suốt đêm và khoảng 4 – 5 giờ mỗi ngày, còn đối với tôm thẻ do mật độ nuôi dày, thời gian chạy quạt ban ngày phải gấp đôi như vậy. Ông Hải cho rằng, “tôm 50 ngày tuổi chỉ cần quạt dừng 30 phút là nổi đầu cả ao, quạt hoạt động ngắt quãng xảy ra liên tục trong kỳ tôm lột vỏ coi như nguy cơ thất bại đã sát bên sườn.”

Cao điểm trong mùa khô, nắng nóng như lúc này, quạt trên các ao tôm buộc phải chạy suốt cả ngày lẫn đêm. Do vậy, “cúp điện ban ngày xoay trở có thể kịp thời, có những đêm cúp điện 4 – 5 lần người nuôi tôm coi như thức trắng với tôm,” ông Hải phân trần.

Vất vả hơn, những đêm mưa bất chợt, chẳng may điện cúp người nuôi tôm phải đội mưa, chạy lòng vòng các ao tôm để chuyển từng giàn quạt sang chạy máy dầu. Nguy hiểm nhất là lúc chuyển ngược lại từ chạy máy dầu sang mô tơ điện – khi điện nguồn đã nối trở lại. Lúc đó “người canh tôm phải tiếp xúc với nguồn điện khi người ướt, tay run…” ông Hải nói. Theo quan sát của ông Hải, “ngày nào cúp điện nhiều lần, quạt gián đoạn liên tục, con tôm ăn mồi yếu thấy rõ.”

Mơ điều kiện nuôi tôm lý tưởng

Phong trào chuyển đổi rầm rộ từ đất nông nghiệp sang nuôi tôm khiến không ít người có nhiều kinh nghiệm nuôi tôm lo ngại. Ông Nguyễn Ngọc Hải, người nuôi tôm ở Bình Đại (Bến Tre) nói rằng, người người nuôi tôm, nhà nhà nuôi tôm đã đẩy trang thiết bị (động cơ điện, bộ giảm tốc…) phục vụ nghề nuôi tôm tăng 80 – 100% về giá cả và luôn trong tình trạng cháy hàng. Diện tích nuôi mở rộng, tình trạng thiếu điện ngày càng trầm trọng hơn.

Ông Nguyễn Văn Nhiệm, Chủ nhiệm Hợp tác xã nuôi tôm Mỹ Thanh (thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng), tỏ vẻ băn khoăn khi nghề nuôi tôm ngày càng chịu tác động của nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan.

Theo ông Nhiệm, nuôi tôm chỉ ít rủi ro và bền vững hơn nếu nghề này (trước hết) được đặt trên hạ tầng tri thức của nông dân; tiếp đến là hạ tầng về điện, thủy lợi, giao thông; chính sách bảo hiểm cho tôm nuôi và thứ tư là nguồn tín dụng đảm bảo (gồm có “tay ba”: ngân hàng, doanh nghiệp hay hợp tác xã và đơn vị tư vấn kỹ thuật).

Ông Nhiệm phân tích, người nuôi tôm tối thiểu phải am hiểu kỹ thuật; tuân thủ các nguyên tắc, yêu cầu ràng buộc… Lâu nay có tình trạng người không biết gì cũng lao vào nuôi tôm, khi xảy ra sự cố sẽ làm lây nhiễm, gây hại cả vùng nuôi rộng lớn, trong đó có cả những người giàu kinh nghiệm.

Tiếp đến, khi nguồn điện đảm bảo, thủy lợi tốt (hệ thống cấp và thoát nước riêng biệt – PV) tôm nuôi mạnh khỏe, đề kháng tốt sẽ hạn chế bớt dịch bệnh phát sinh trong quá trình nuôi; giao thông thuận tiện cũng giúp giảm giá thành tôm nuôi, tăng lợi nhuận.

Ông cho rằng, chính sách bảo hiểm cần thiết nên có để hỗ trợ người nuôi tôm, vì vốn đầu tư nuôi tôm quá lớn. Nếu gặp rủi ro, bảo hiểm sẽ lo trả nợ cùng nông dân. Cuối cùng, “gói tín dụng đảm bảo sẽ bảo đảm hơn khi đã có “cấu trúc” tay ba. Lúc đó ngân hàng sẽ yên tâm khi giải ngân vốn vay vì có đơn vị tư vấn kỹ thuật “giữ hộ”.

Và, với sự giám sát của đơn vị tư vấn này, chính sách bảo hiểm cũng khó bị người nuôi tôm lợi dụng như thời gian thực hiện thí điểm vừa qua ở một số tỉnh,” Ông Nhiệm nói.

Tuy nhiên, những điều kiện ông Nhiệm nêu trên, tới lúc này cũng chỉ là điều kiện “lý tưởng”. Thực tế, ở những vùng nước ngọt quanh năm như An Giang, Đồng Tháp nông dân cũng thi nhau đào ao nuôi tôm thẻ. Trong lúc đó, nhiều vùng nuôi chuyên canh ở khắp ĐBSCL còn thiếu điện, tình trạng nguồn điện quá tải càng gay gắt.

Trong điều kiện cách trở giao thông, ông Lê Tấn Siêng, nông dân nuôi tôm ở xã Ngọc Tố (Mỹ Xuyên, Sóc Trăng) cho rằng, nuôi được con tôm đã khó, vận chuyển còn khó hơn.

Theo ông Siêng, bến phà Dù Tho trên tỉnh lộ 936 nối hai xã Ngọc Đông và Tham Đôn (huyện Mỹ Xuyên, Sóc Trăng) chỉ rộng khoảng 300 mét, nhưng mỗi xe tôm nguyên liệu (trọng tải 3,5 tấn) qua phà phải chịu cước phí 500.000 đồng/lượt, giá thành tôm nguyên liệu tăng thêm. “Bất hợp lý này nhiều năm qua cả huyện Mỹ Xuyên lẫn tỉnh Sóc Trăng giải quyết không xong, nói chi tới chuyện đầu tư giá trị tiền tỷ cho vùng nuôi tôm,” ông Siêng than phiền.


Có thể bạn quan tâm

Đổi Thay Ở Đồng Giàn Đổi Thay Ở Đồng Giàn

Thôn Đồng Giàn, xã Đội Bình (Yên Sơn) là thôn thuần nông, có hơn 95% dân số là người dân tộc Cao Lan. Trước năm 1999, thôn có số hộ nghèo nhiều nhất xã với hơn 55% tổng số hộ. Hơn 10 năm qua, bà con đã đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đa ngành, đa nghề. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng lên.

27/07/2013
Ớt Xuất Khẩu Đạt 76 Tạ/ha Ớt Xuất Khẩu Đạt 76 Tạ/ha

Năm 2013, toàn huyện Chi Lăng (Lạng Sơn) trồng được 111,27 ha ớt chỉ thiên xuất khẩu. Năng suất đạt 76 tạ một ha được tính là cao nhất từ trước đến nay. Sản lượng đạt 855,5 tấn, tăng gần gấp đôi so với năm 2012. Hiện nay trung bình mỗi kg ớt tươi được tư thương mua với giá 15 đến 20 ngàn đồng. Nhận thấy tiềm năng cây ớt xuất khẩu, huyện Chi Lăng đã xây dựng đề tài khoa học trồng và phát triển cây ớt tạo thành vùng hàng hóa.

10/07/2013
Trồng Cỏ Chăn Nuôi Ở Xã Thượng Giáp Trồng Cỏ Chăn Nuôi Ở Xã Thượng Giáp

Thượng Giáp là một trong 8 xã phía Bắc của huyện vùng cao Nà Hang, có thế mạnh về phát triển chăn nuôi đại gia súc. Tổng đàn trâu trong xã luôn duy trì từ 720 - 800 con; đàn bò từ 250 - 300 con, bình quân mỗi hộ dân trong xã nuôi từ 2 - 3 con trâu, bò.

27/07/2013
Thu 200 Triệu Đồng Từ 200 Trụ Tiêu Thu 200 Triệu Đồng Từ 200 Trụ Tiêu

Đó là 200 trụ tiêu giống Vĩnh Linh lá to, 3 năm tuổi của vợ chồng anh Nguyễn Văn Lợi - chị Thị Hồng ở ấp Đồi Đá, xã Lộc Khánh (Lộc Ninh - Bình Phước). Chị Hồng phấn khởi khoe với chúng tôi đến đầu tháng 4, gia đình chị đã thu hoạch được 1,2 tấn, nhưng cây vẫn còn xum xuê những chuỗi trái dài và chắc mẩy nhờ đủ nước. Chị ước đoán sẽ thu thêm 1 tấn nữa và trung bình mỗi trụ tiêu được 10kg.

16/04/2013
An Thịnh Giảm Nghèo Từ Cây Mía An Thịnh Giảm Nghèo Từ Cây Mía

Từ một thôn nghèo nhất xã, 3 năm trở lại đây, đời sống bà con thôn An Thịnh, xã Tân Thịnh (Chiêm Hóa) đã có những thay đổi rõ rệt nhờ đẩy mạnh thâm canh cây mía, mang lại hiệu quả kinh tế khá cao..

27/07/2013