Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Tinh Lọc Và Chọn Ra Những Dòng Cacao Chịu Mặn Cao

Tinh Lọc Và Chọn Ra Những Dòng Cacao Chịu Mặn Cao
Ngày đăng: 07/08/2013

Bến Tre là địa bàn có diện tích trồng cacao lớn nhất nhì đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, tình trạng nước mặn xâm nhập sâu vào đất liền do tác động của biến đổi khí hậu đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến sản lượng cũng như chất lượng của cây cacao.

Trước thực trạng này, đòi hỏi ngành chức năng cần có những biện pháp hữu hiệu giúp người nông dân khắc phục khó khăn, tạo ra những giống cacao chịu được độ mặn cao nhưng vẫn đảm bảo về sản lượng, chất lượng.

Ở Bến Tre, quy trình kỹ thuật trồng cây cacao được phổ biến rộng rãi trong sản xuất chủ yếu áp dụng cho những vùng nước ngọt hoặc ít nhiễm mặn. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nước mặn đã xâm nhập sâu vào đất liền với độ mặn cao, vấn đề trở nên cần thiết, cấp bách đặt ra ở đây là cần có một quy trình kỹ thuật trồng cacao trên vùng đất nhiễm mặn.

Xuất phát từ vấn đề trên, Trung tâm Giống Nông nghiệp tỉnh đã tinh lọc và chọn ra nhiều bộ giống cacao chịu được độ mặn cao để trồng thực nghiệm trên những vùng đất có độ nhiễm mặn khác nhau. Theo đó, Trung tâm Giống Nông nghiệp tỉnh đã chọn ra 8 dòng cacao đang trồng phổ biến: TD3, TD5, TD6, TD7, TD8, TD9, TD10, TD11 và trồng thực nghiệm ở 4 vùng có độ mặn khác nhau, gồm: xã Quới Thành (Châu Thành) - đại diện vùng ngọt, không nhiễm mặn; xã Châu Hòa (Giồng Trôm) - đại diện vùng nhiễm mặn 2 phần ngàn; xã Tân Phú Tây (Mỏ cày Bắc) - đại diện vùng nhiễm mặn 3 phần ngàn; xã Bình Khánh Tây (Mỏ Cày Nam) - đại diện vùng nhiễm mặn 4 phần ngàn. Mỗi điểm trồng 268 cây cacao giống.

Ở thời điểm năm 2010, độ mặn cao nhất ghi nhận được tại điểm xã Bình Khánh Tây là 9 phần ngàn trong tháng 4 và tháng 5, độ mặn cao kế đến là ở điểm xã Tân Phú Tây vào tháng 4 là 7 phần ngàn, độ mặn thấp nhất là 2 phần ngàn tại xã Quới Thành. Do ảnh hưởng của nồng độ mặn cao, thời gian nhiễm mặn kéo dài, nên cây sinh trưởng chậm lại, đến đầu mùa mưa rải rác trong các lô thí nghiệm, một số cây cacao có hiện tượng rụng lá rồi chết.

Tỷ lệ cây chết giữa các lô, các giống không đồng đều nhau. Cụ thể: giống TD3, TD5, TD11: khả năng chịu đựng tốt, tỷ lệ chết dưới 10%; giống TD9, TD8: khả năng chịu đựng khá, tỷ lệ chết 10-20%; các giống còn lại có tỷ lệ chết từ 20 đến 30%; đối với lô trồng trong điều kiện đất cao, xa mương, tỷ lệ chết thấp.

Ở thời điểm năm 2011, diễn biến của yếu tố mặn cũng diễn ra tương tự như năm 2010, nhưng mức độ và thời gian nhiễm mặn ngắn hơn. Cụ thể ở điểm xã Bình Khánh Tây, độ mặn cao nhất trong tháng 4 cũng chỉ đạt khoảng 7 phần ngàn, thấp hơn khoảng 2 phần ngàn so với năm 2010, ở các điểm còn lại, độ mặn cũng giảm từ 1 đến 2 phần ngàn so với năm 2010. Do ảnh hưởng mặn không nghiêm trọng như năm 2010 nên trong mùa khô năm 2011, không có hiện tượng rụng lá rồi chết cây.

Thạc sĩ Võ Hoài Chân - Phó Giám đốc Trung tâm Giống Nông nghiệp tỉnh cho biết: Mỗi dòng cacao trồng thực nghiệm đều có những ưu điểm cũng như đặc tính khác nhau. Kết quả thực nghiệm cho thấy, cây cacao có thể chịu mặn đến khoảng 7 phần ngàn trong thời gian mùa khô kéo dài từ 1 đến 2 tháng. Ở nồng độ mặn từ 7 đến 9 phần ngàn, cây chỉ chịu đựng được trong thời gian ngắn, nếu kéo dài cây sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng và có khả năng bị chết. Ở nồng độ mặn trên 9 phần ngàn, cây bị cháy lá nặng, có thể làm chết cây (ở nồng độ mặn này không có giống cây nào không bị ảnh hưởng).

Có thể nói, 9 phần ngàn là ngưỡng mặn cao nhất mà cây có thể chịu đựng, nồng độ mặn 9 phần ngàn kéo dài trong 1 tháng làm cây bị chết. Ở độ mặn như thế, giống TD11, kế đến là 2 giống TD3 và TD10 là các giống có nhiều ưu thế qua kết quả thực nghiệm. Đặc tính của các dòng cacao này đều có những ưu điểm là cây cho trái sớm, đậu trái sai thường xuyên, tỷ lệ hạt chắc cao, hạt to, chín sớm, tán gọn và cây chịu bóng râm.

Như vậy, để giúp người nông dân ứng phó với biến đổi khí hậu, Trung tâm Giống Nông nghiệp tỉnh đã tinh lọc và chọn ra được 3 dòng cacao có khả năng chịu được độ mặn cao. Điều này không chỉ có ý nghĩa về sự thành công trong việc ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp mà nó còn góp phần giúp nông dân an tâm sản xuất, ổn định kinh tế gia đình.


Có thể bạn quan tâm

Cua ghẹ Việt được người Nhật ưa chuộng Cua ghẹ Việt được người Nhật ưa chuộng

Nhật là thị trường nhập khẩu cua ghẹ lớn thứ ba của Việt Nam, theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP).

17/08/2015
7 tháng, sản lượng cá nuôi trồng, khai thác đạt trên 376 tấn 7 tháng, sản lượng cá nuôi trồng, khai thác đạt trên 376 tấn

Thực hiện chủ trương, định hướng của cấp uỷ, chính quyền TP Hoà Bình về tiếp tục phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản ao, hồ và nuôi cá lồng trên hồ Hoà Bình gắn với bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản. Hiện, TP Hoà Bình duy trì ổn định trên 150 ha diện tích nuôi cá ao, hồ và phát triển khoảng 300 lồng có nuôi cá trên sông Đà.

18/08/2015
Nhiều vùng nuôi thủy sản bị dịch bệnh lúng túng xử lý, ngăn chặn Nhiều vùng nuôi thủy sản bị dịch bệnh lúng túng xử lý, ngăn chặn

Do ảnh hưởng của tình hình thời tiết và nguồn nước phục vụ sản xuất bị ô nhiễm nặng nên nhiều vùng nuôi thủy sản tại Hải Phòng có hiện tượng tôm, cá chết hàng loạt. Cả người dân và chính quyền địa phương đều lúng túng trong triển khai các biện pháp xử lý.

18/08/2015
Tôm sú đầm nhà Mạc Tôm sú đầm nhà Mạc

Là một trong 5 sản phẩm được UBND TX Quảng Yên (Quảng Ninh) chọn tham gia Đề án: “Mỗi xã, phường một sản phẩm” của tỉnh, đến nay, sản phẩm tôm sú Quảng Yên đã có mặt ở hầu hết các chợ, siêu thị, cửa hàng đại lý giới thiệu sản phẩm OCOP trên địa bàn tỉnh...

18/08/2015
Giải pháp nâng cao hiệu quả tôm nuôi công nghiệp Giải pháp nâng cao hiệu quả tôm nuôi công nghiệp

Trước đây, hầu hết các hộ nuôi tôm công nghiệp trên địa bàn huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau đều chọn nuôi mật độ cao để tăng sản lượng tôm nuôi. Nhưng kể từ đầu năm 2015 đến nay, khi tôm nguyên liệu trên thị trường bị rớt giá, cộng với giá thức ăn, vật tư phục vụ nuôi thuỷ sản ở mức cao thì cách nuôi này phần lớn không mang lại hiệu quả.

18/08/2015