Tìm ra biện pháp phòng và điều trị tác nhân gây bệnh trên cá giống; trứng cá hồi, cá tầm

Bằng các phương pháp thu, vận chuyển và lưu giữ mẫu; phương pháp nghiên cứu tác nhân gây bệnh; phương pháp đề xuất các biện pháp phòng và trị bệnh, nhóm tác giả nghiên cứu đề tài đã tìm ra các tác nhân gây bệnh trên cá giống và trứng cá tầm, cá hồi tại Lâm Đồng; đồng thời, đưa ra các loại thuốc phòng và trị bệnh cho cá giống và trứng cá.
Cụ thể, tìm thấy 4 loài KST ở cá hồi giống, phát hiện 6 loài KST ở cá tầm Nga và 7 loài KST ở cá tầm Siberi; 6 loài vi khuẩn gây bệnh xuất huyết, lở loét, bệnh thối vây, mòn cụt đuôi, bệnh đen thân, bơi xoáy ở cá hồi giống, cá tầm Nga giống và cá tầm Siberi giống; phân lập được 2 loài nấm trên cá giống và trứng của cá hồi vân, cá tầm Nga và cá tầm Siberi thu.
Ngoài ra, nhóm đề tài còn phát hiện cá hồi vân, cá tầm Nga và cá tầm Siberi giống tại Lâm Đồng đã có một số dấu hiệu giống với bệnh vi rút VHSV và IHN như xuất huyết, đen thân, bơi zíc zắc. Từ đó, nhóm nghiên cứu đã đề xuất các biện pháp phòng và điều trị bệnh như: sử dụng nước muối nồng độ 18% - 20% tắm cho cá hồi giống, sử dụng Ciprofloxacine nồng độ 3 - 5g trộn vào thức ăn cho cá hồi và cá tầm giống, sử dụng Oxy già nồng độ 500 - 700 tắm cho cá hồi giống, cá tầm giống và trứng cá tầm, trứng cá hồi.
Kết quả nghiên cứu của đề tài đã giúp tìm ra biện pháp phòng và trị bệnh cho cá giống và trứng cá hồi, cá tầm tại Lâm Đồng một cách hiệu quả, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về lượng và chất của giống các loài cá tầm, cá hồi, góp phần tăng hiệu quả kinh tế của nghề nuôi các đối tượng này ở Lâm Đồng; đồng thời, góp phần phát triển bền vững nghề nuôi cá tầm, cá hồi trên địa bàn tỉnh.
Có thể bạn quan tâm

Hiện nay, cá chạch được người tiêu dùng ưa thích, thị trường tiêu thụ ổn định. Thành công của mô hình này sẽ là cơ sở để các ngành chức năng của thành phố Cà Mau đánh giá hiệu quả kinh tế, xây dựng quy trình nuôi để chuyển giao và nhân rộng, giúp nông dân xóa đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu.

Chăn nuôi phát triển đồng nghĩa với việc lượng chất thải từ chăn nuôi thải ra môi trường ngày càng nhiều. Hiện nay, việc ứng dụng xây hầm biogas vào chăn nuôi nhằm xử lý triệt để nguồn chất thải, tiết kiệm chi phí tiền mua khí đốt, góp phần tích cực giảm thiểu ô nhiễm môi trường, đặc biệt khu vực đông dân cư đang được một số địa phương thực hiện, mang lại hiệu quả.

Ông Nguyễn Quang Vinh Bình, Chi cục trưởng Chi cục Quản lý Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản (NLTS) tỉnh Thừa Thiên Huế cho biết, nạn đánh bắt mang tính hủy diệt NLTS vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai diễn ra khá phức tạp. Trên 50 vụ vi phạm được phát hiện, xử lý từ đầu năm đến nay, tịch thu và tiêu hủy 250 cheo lừ xếp mắt lưới nhỏ, 50 bộ kích điện, xử phạt hành chính trên 140 triệu đồng là con số đáng báo động.

Diện tích chè của Hà Giang hiện có 20.305 ha, diện tích cho thu hoạch 16.932 ha, sản lượng chè búp tươi ước đạt trên 57.598 tấn. Ngành chè đã và đang mang lại đời sống, thu nhập cho hàng chục NGHÌN đồng bào. Tuy nhiên, khảo sát thực tiễn cho thấy đời sống của người làm chè hiện nay vẫn còn thấp, các mối liên kết còn bấp bênh. Rất cần một “cú hích” để ngành chè phát triển đúng với tiềm năng.

Tại hội nghị, tiến sỹ Phan Huy Thông, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia khẳng định: Nuôi trồng thủy sản nói chung, nuôi nhuyễn thể nói riêng đạt hiệu quả kinh tế cao phụ thuộc vào nguồn giống tốt và khoa học kỹ thuật tốt. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất hiện nay của các tỉnh phía Bắc trong nuôi nhuyễn thể là nguồn giống trong nước sản xuất ra chỉ đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu con giống của ngư dân, phần còn lại phải nhập giống chủ yếu từ Trung Quốc nên khó kiểm soát chất lượng con giống.