Tìm Giải Pháp Phòng Trừ Cá Lau Kiếng

Trước sự phát tán quá nhanh và mức độ nguy hại của cá lau kiếng, Sở KH-CN vừa chỉ định Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh Bạc Liêu triển khai đề tài nghiên cứu khoa học: “Đánh giá sơ bộ sự phát tán và tác hại của cá lau kiếng trên địa bàn tỉnh”. Mục tiêu đề tài là nhằm xác định vùng phân bố và mức độ phong phú của nó so với các loài cá bản địa, đồng thời đưa ra giải pháp phòng trừ hiệu quả.
Đề tài thực hiện trong vòng 1 năm (từ tháng 7/2013 - 7/2014). Theo thuyết minh đề tài, cá lau kiếng là loài sinh vật ngoại lai. Sự tồn tại của nó đã uy hiếp đến sự phát triển các loài thủy sản bản địa.
Đánh giá ban đầu của tác giả đề tài thì cá lau kiếng là loài ăn tạp, ăn tảo đáy và mùn bã hữu cơ nên nó cạnh tranh gay gắt thức ăn với các loài thủy sản bản địa. Khi đàn cá lau kiếng càng phát triển thì khả năng cung cấp thức ăn và nơi cư trú cho các loài thủy sản bản địa càng giảm dần (nhất là động vật đáy và côn trùng). Do cá ăn bùn đất nên có thể làm thay đổi nền đáy và các chất dinh dưỡng nền đáy sẽ bị chuyển hóa sớm hơn bình thường trong chuỗi thức ăn.
Đặc biệt, nó gây tác động trực tiếp đến những loài có cùng chuỗi thức ăn với nó. Cá lau kiếng có thể ăn cả trứng và cá con của các loài cá bản địa. Từ tập tính ăn tạp ở tầng đáy nên chúng “cày xới” nền đáy, tác động trực tiếp đến hệ thực vật thủy sinh ở nền đáy và ảnh hưởng đến cả hệ sinh thái. Vì cá lau kiếng thường đào hang để trú ẩn (chiều dài hang phổ biến từ 0,5 - 1m) nên dễ gây ra xói lở bờ sông, kênh, rạch, ao đìa…
Theo khảo sát sơ bộ của tác giả, cá lau kiếng có thể sống trong môi trường ẩm thấp, ngay cả khi mực nước thấp hơn miệng hang. Phạm vi phân bố của nó rất rộng, từ nơi có nước chảy mạnh đến nước chảy yếu, từ hàm lượng ôxy hòa tan thấp đến ôxy hòa tan cao. Ngay cả ở vùng ven biển, cá lau kiếng cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản lượng khai thác của ngư dân.
Cá lau kiếng khi di nhập vào môi trường mới sẽ gia tăng nhanh về số lượng trong thời gian ngắn. Một khảo sát thú vị khác nữa là các loài chim biển rất thích ăn thịt cá lau kiếng (do cá có kích thước to và ít di chuyển), tuy nhiên, khi ăn thì chim rất dễ chết do mắc vào gai cá.
Tác giả đề tài khẳng định, dù cá lau kiếng đã bùng phát khắp vùng ĐBSCL ở mức đáng báo động, làm cho đa dạng sinh học bị giảm sút và nghiêm trọng hơn là sự tuyệt chủng một số loài cá, nhưng đến nay, tác hại của loài cá này vẫn chưa được cảnh báo đúng mức.
Thạc sĩ Phạm Hoàng Minh - Phó Giám đốc Sở KH-CN cho biết, trong phạm vi đề tài “Đánh giá sơ bộ sự phát tán và tác hại của cá lau kiếng trên địa bàn tỉnh”, mong muốn của tỉnh là xác định được vùng phân bố và mức độ phong phú của cá lau kiếng so với các loài cá bản địa có giá trị kinh tế. Qua đó, sẽ có giải pháp phòng trừ một cách hiệu quả, ngăn ngừa thiệt hại tiếp theo do sinh vật ngoại lai này mang lại.
Có thể bạn quan tâm

Mô hình được nuôi thử nghiệm tại hộ bà Trịnh Thị Thơ (thôn 3), với diện tích 450 m2 mặt nước, mật độ nuôi 1 con/m2, trong đó cá trắm đen 360 con, còn lại là cá chép V1 và cá mè. Chi cục hỗ trợ 100% con giống, thức ăn, kỹ thuật.

Tiếp chúng tôi trong ngôi nhà nhỏ nằm giữa đầm nuôi trồng thuỷ sản rộng mênh mông tại khu 12, phường Hà An, ông Khang kể cho chúng tôi nghe quá trình lập nghiệp từ nuôi trồng thuỷ sản. Năm 2005, vị trí ao đầm hiện tại của gia đình ông chỉ là đồng đất hoang hoá, cỏ lau mọc đầy.

Xã Ia Bă từ lâu được xem là mảnh đất có nhiều tiềm năng trong việc nuôi cá nước ngọt theo hình thức quảng canh của huyện Ia Grai. Thời gian gần đây, mô hình này đang được Hội Nông dân địa phương dành nhiều sự quan tâm, nhằm giúp bà con tiếp tục sản xuất hiệu quả, ổn định cuộc sống.

Cua da to gấp nhiều lần cua thường, hai bên càng có lớp lông như rêu bám. Sau khi lột xác, cua mới đạt kích thước lớn và có mai khá đặc, có con nặng tới 3 lạng. Người dân nơi đây thường đánh bắt bằng lưới bát quái (lưới hình chữ nhật, dài khoảng 5m, rộng khoảng 30cm, ở giữa có các khung sắt đặt cách nhau chừng 40cm để cố định lưới thành đường ống dài).

Nuôi thủy sản trên địa bàn huyện Vũng Liêm (Vĩnh Long) có bước phát triển khá. Với mục tiêu trong năm 2014, huyện phát triển 2.100ha, đến nay toàn huyện có tổng diện tích nuôi thủy sản là 2.165,7ha, đạt 103% so kế hoạch, so năm 2013 tăng 149,7ha.