Tiêu thụ nông, thủy sản vẫn nóng
Thiếu đủ đường
Đại biểu Nguyễn Ngọc Phương (đoàn đại biểu Quảng Bình) đặt vấn đề: Phần lớn việc tiêu thụ sản phẩm của ngư dân hiện nay phụ thuộc vào thương lái. Nhiều ngư dân khó khăn trước khi ra khơi phải nợ chi phí đèn dầu, đá ướp. Để tính chuyện làm ăn lâu dài thì phải nhập cho các đầu nậu. Trong lúc đó, nhiều tỉnh không có cơ sở sản xuất chế biến, không có chợ cá và không có trung tâm đấu giá để trao đổi hàng hóa đúng giá trị”.
Còn đại biểu Mã Điền Cư (Quảng Ngãi) nhận định: Nghị định 67 của Chính phủ về chính sách phát triển thủy sản hợp lòng dân. Tuy nhiên, theo Báo cáo kết quả giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội cho thấy, việc thực hiện chính sách này còn nhiều bất cập, hạn chế, như việc đầu tư vốn xây dựng cảng cá, bến cá, khu neo đậu tránh bão ở nhiều dự án chưa kịp thời, dàn trải, thiếu đồng bộ. Một số quy định của Nghị định còn chưa phù hợp cần sửa đổi, bổ sung. Việc thành lập quản lý tổ, đội hợp tác xã ở các địa phương còn chậm và thiếu chặt chẽ...
Về tình hình khai thác, đại biểu Nguyễn Văn Tuyết (Bà Rịa - Vũng Tàu) lo lắng khi sản lượng hải sản khai thác cho phép ngoài khơi ở nước ta ước tính 1,1 triệu tấn, còn sản lượng khai thác gần bờ khoảng 600.000 tấn, nhưng hiện nay sản lượng khai thác gần bờ lại là 1,1 triệu tấn còn khai thác xa bờ chỉ đạt 600.000 tấn. Đại biểu Tuyết đặt câu hỏi: “Vì sao chính sách hỗ trợ ngư dân, đánh bắt xa bờ trong thời gian qua chậm phát huy tác dụng?”.
Kỳ vọng Nghị định 67
Liên quan đến vấn đề tiêu thụ sản phẩm cho ngư dân, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát cho hay, đã nhìn thấy vấn đề này và Chính phủ cũng đã có chủ trương. “Tại Nghị định 67, đã có chính sách để hỗ trợ ngư dân, đó là cho ngư dân vay vốn để ra khơi sản xuất với phương châm là khi ngư dân chủ động được về vốn từ nguồn của nhà nước thì không bị phụ thuộc về vốn, phải tạm ứng về vật tư, lương thực, thực phẩm khi ra khơi từ thương lái để rồi khi về phải bán sản phẩm cho thương lái trong một số trường hợp bị ép. Tới nay đã cho vay được 23 tỷ đồng”. Cũng theo ông Cao Đức Phát thì đây là một giải pháp, còn những giải pháp khác chúng ta cũng phải tiếp tục thực hiện. Trong đó, vấn đề tổ chức lại sản xuất, hình thành tổ đội sản xuất, hình thành hệ thống dịch vụ hậu cần và phát triển mạnh hơn hệ thống chế biến, trực tiếp thu mua sản phẩm do ngư dân đưa về bờ.
Về chủ trương liên kết 4 nhà, Bộ trưởng Phát cho hay, qua 10 năm đã cố gắng triển khai thực hiện. Thực tế, một số loại sản phẩm như bò sữa và mía đường thì việc liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân được thực hiện khá phổ biến. Nhưng đối với những sản phẩm mà nông dân không nhất thiết phải gắn bó với nhà máy chế biến hoặc là doanh nghiệp tiêu thụ thì sự liên kết còn lỏng lẻo.
Lý giải về sự chưa thành công như mong đợi. Bộ trưởng Phát cho hay, một phần rất quan trọng là doanh nghiệp trong nông nghiệp ít và những doanh nghiệp thực sự muốn liên kết có năng lực về tài chính, có kho tàng, có cơ sở chế biến có thể liên kết và thực hiện liên kết thì không nhiều. Bên cạnh đó, khu vực ĐBSCL thì các tổ hợp tác và các hợp tác xã rất ít, doanh nghiệp rất khó khăn khi liên kết trực tiếp với hàng chục nghìn hộ nông dân và gần như điều đó là không thể, cần phải có các tổ hợp tác và hợp tác xã để làm trung gian giữa doanh nghiệp và nông dân.
Liên quan đến việc thực hiện Nghị định 67, theo ông Phát, đầu tiên để đánh bắt xa bờ thì phải có tàu cá, trước khi có Nghị định này thì ngư dân tự mình đóng tàu, nhưng từ sau khi Nghị định 67 của Chính phủ đã vào cuộc và hỗ trợ trực tiếp mạnh mẽ hơn. Với sự nỗ lực của ngư dân thì số lượng tàu đánh bắt xa bờ đã tăng lên rất mạnh. “Khi tôi nhận nhiệm vụ tôi được thông báo là số tàu đánh bắt xa bờ khoảng hơn 20.000 chiếc, đến hết tháng 5 này con số đó đã lên tới 30.000 tàu và mã lực bình quân của một con tàu là 122 mã lực/tàu. Bộ đang tiếp tục hỗ trợ ngư dân các phương tiện, các kỹ thuật để đánh bắt có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trữ lượng cá tại các vùng xa bờ cũng có hạn. Do vậy, phải phát triển một cách vững chắc để ngư dân khai thác ngoài xa có hiệu quả, lâu dài” - Bộ trưởng Cao Đức Phát chia sẻ.
Có thể bạn quan tâm
Nhìn Lại Vụ Nuôi Tôm 2013 Và Những Điều Cần Quan Tâm Trong Vụ Nuôi 2014 Năm 2013, cả nước có khoảng 30 tỉnh/thành nuôi tôm nước lợ, tổng diện tích thả nuôi 652.612 ha, sản lượng đạt 475.854 tấn. Trong đó, khu vực ĐBSCL chiếm 92,5% diện tích và 79,8% sản lượng. Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích thả nuôi 6.270 ha, là một trong 10 tỉnh, thành có diện tích nuôi tôm lớn trong nước.
Những Thành Công Bước Đầu Của Mô Hình VietGAP Vài năm trở lại đây, nông dân ở một số nơi trong tỉnh Cà Mau dần được tiếp cận với loại hình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP và đạt nhiều kết quả bước đầu. Ông Trần Thanh Hải, Phó Chủ tịch Hội Nông dân huyện Trần Văn Thời, phấn khởi: “Huyện Trần Văn Thời đã phát triển được loại hình này ở xã Khánh Hưng với cây thanh long ruột đỏ.
Tây Nguyên Ngừng Khai Thác Hàng Nghìn Ha Cao Su Vì Lỗ Cao su - một trong những nông sản chủ lực ở khu vực Tây Nguyên đang gặp rất nhiều khó khăn, một phần do giá mủ xuống thấp, một phần do việc xuất khẩu sang Trung Quốc gặp nhiều khó khăn. Ở nhiều vườn cao su liên kết và cao su tiểu điền, nông dân đã ngừng cạo mủ vì tiền bán sản phẩm thấp hơn chi phí.
Nông Dân Trồng Nấm Vào Vụ Mới Do thời gian qua, giá một số loại nấm đứng ở mức thấp nên mùa vụ này, nhiều nông dân trồng nấm không đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, nhu cầu tiêu thụ bịch phôi nấm không cao bằng các vụ nấm khác trong năm. Hiện lượng nấm mèo khô tồn tại các trại nấm còn khá nhiều vì giá thu mua thấp, chỉ có từ 70-72 ngàn đồng/kg.
Dưa Hấu Cuối Vụ Tăng Giá Vì Khan Hiếm Khi mùa dưa hấu chính vụ đã qua, giá dưa từ 2.000 đồng/kg được thu mua tại ruộng vào thời điểm cách đây hơn 1 tháng nay đã tăng lên 10.000 đồng/kg. Tuy nhiên, những ruộng dưa còn thu hoạch vào thời điểm này ít nên xảy ra tình trạng khan hiếm hàng.