Tiên Phong Nuôi Cá Lồng Bè Trên Sông

Với mục tiêu tăng thu nhập, nâng cao đời sống, không ít hộ nông dân ở Hòa Vang (Đà Nẵng) đã mạnh dạn đầu tư mở ra hướng làm ăn mới đem lại hiệu quả kinh tế rất lạc quan. Mô hình tiêu biểu nêu dưới đây đã khẳng định: năng động, nhạy bén, đầu tư đúng hướng, nỗ lực vượt khó, nhà nông dư sức làm giàu.
Mới đây, bà con xã miền núi Hòa Bắc mở ra hướng làm ăn mới: nuôi cá lồng bè trên sông Cu Đê. Chưa đến kỳ thu hoạch, song những gì đang có cũng đủ khẳng định đây là hướng làm ăn rất khả thi, đem lại hiệu quả kinh tế cao và bền vững.
Người tiên phong trong hoạt động kinh tế mới mẻ này là ông Hồ Phú Sâm, Trưởng thôn Phò Nam. Có mặt tại bè cá neo cách bờ hơn chục mét, đoạn gần cuối địa phận xã Hòa Bắc, vào thời điểm cá điêu hồng thả nuôi hơn 3 tháng, ghi nhận của chúng tôi là hàng vạn con to cỡ bàn tay thỏa sức bơi lượn giữa làn nước trong xanh. Khi ông Sâm vãi thức ăn, cá nổi lên dày đặc đớp mồi trông thật thích mắt.
Ông Sâm cho biết: Cá lớn rất nhanh. Tỷ lệ hao hụt ít. Thời gian tới bình yên vô sự, lứa này trúng đậm. Với 30.000 con đã thả, trừ hao hụt 20%, khi thu hoạch, chí ít cũng còn khoảng 24.000 con. Cứ tính bình quân 2 con/kg, lứa đầu tiên này 12 tấn cá trong tầm tay. Với giá 42.000 - 45.000 đồng/kg, doanh thu nửa tỷ đồng cầm chắc, trừ chi phí lãi ròng từ 150 đến 180 triệu đồng.
Thấy chúng tôi có vẻ bán tín bán nghi về nguồn thu kỷ lục như vậy, ông Phan Hữu Ánh, chuyên gia nuôi cá lồng bè lâu năm tại hồ Hòa Trung có mặt trên bè vào thời điểm đó khẳng định: Với 30.000 con đã thả, sau 5 tháng nuôi, dư sức đạt hơn 12 tấn. Phải nói, nuôi cá lồng bè ở sông Cu Đê thuận lợi hơn ở hồ Hòa Trung rất nhiều. Nước trên sông này chảy không mạnh, ít ô nhiễm, cá chóng lớn.
Có thể bạn quan tâm

Theo thống kê của Hải quan Việt Nam, tổng kim ngạch XNK hai chiều giữa Việt Nam và Mexico 3 quý đầu năm 2014 gần đạt ngưỡng 1 tỉ đô la Mỹ, ước đạt 986 triệu USD, tăng 45% so với cùng kỳ 2013.

Lọt vào nhóm các ngành hàng có kim ngạch xuất khẩu (XK) “tỷ đô” mỗi năm, tuy nhiên, XK rau quả của Việt Nam vẫn chưa xứng với tiềm năng. Đặc biệt, ở những thị trường lớn như Nhật Bản, Hoa Kỳ, thị phần rau quả Việt còn rất hạn chế.

Đơn cử như Huyện hội thì phối hợp với Trung tâm dạy nghề mở các lớp dệt thổ cẩm cho phụ nữ dân tộc thiểu số và vận động 12 chị tham gia các lớp cạo mủ cao su, tin học. Hội phụ nữ các xã Đắk D’rô, Tân Thành mở được 2 lớp xóa mù chữ cho 47 hội viên, phụ nữ dân tộc, tôn giáo.

Hiện ở nước ta có nhiều vùng trồng mắc ca, song chủ yếu tập trung ở vùng Tây Nguyên và Tây Bắc. Thống kê của Tổng cục Lâm nghiệp, tổng diện tích trồng mắc ca tại Tây Nguyên là 1.645 ha, Tây Bắc, diện tích rừng trồng mắc ca chưa lớn, chủ yếu tập trung tại Sơn La, Điện Biên và một số tỉnh đang trồng thử nghiệm.

Trong rất nhiều nguyên nhân khiến tiến độ giao đất giao rừng trên địa bàn huyện Điện Biên chậm phải kể đến những khó khăn, vướng mắc trong khâu tổ chức họp dân tuyên truyền để bà con nhận khoanh nuôi bảo vệ rừng. Nếu như ở một số địa bàn khác người dân tích cực phối hợp, nhận khoán khoanh nuôi bảo vệ rừng, thì tại bản Nậm Ty 1, Nậm Ty 2, xã Hua Thanh dù đến nay đã qua vài ba lần họp dân, nhưng rừng vẫn chưa thể giao cho cộng đồng!