Thương Nhân Xuất Khẩu Gạo Phải Xây Dựng Vùng Nguyên Liệu Tin Vui Cho Người Trồng Lúa

Từ ngày 1/3/2015, thương nhân kinh doanh, xuất khẩu gạo phải xây dựng vùng nguyên liệu. Đây là một trong những quyết định của Bộ Công thương vừa ban hành nhằm thực hiện lộ trình xây dựng vùng nguyên liệu, đồng thời phát huy vai trò của liên kết trong sản xuất, tiêu thụ lúa, gạo giai đoạn 2015 - 2020.
Một trong những khó khăn trong việc tiêu thụ lúa, gạo lâu nay vẫn là sự thiếu vắng vai trò của doanh nghiệp xuất khẩu. Do vậy, quy định thương nhân kinh doanh, xuất khẩu gạo phải có vùng nguyên liệu sẽ mở ra cơ hội cho người nông dân gắn kết với doanh nghiệp.
Thông qua sự liên kết này, vai trò, trách nhiệm của nông dân và doanh nghiệp sẽ được phát huy. Nông dân sẽ chủ động về đầu ra, tập trung sản xuất hàng hóa chất lượng theo đơn đặt hàng. Còn doanh nghiệp xuất khẩu cũng an tâm về chất lượng và đáp ứng các quy định của các nước nhập khẩu về tiêu chuẩn, truy xuất nguồn gốc, xuất xứ - vốn trở thành tấm thẻ thông hành không thể thiếu trong hội nhập.
Theo quy định của Bộ Công thương, việc xây dựng vùng nguyên liệu sẽ theo lộ trình như: Đối với những thương nhân xuất khẩu gạo dưới 50.000 tấn/năm, trong năm đầu tiên phải xây dựng vùng nguyên liệu là 500ha, sang năm thứ hai trở lên sẽ tăng thêm 300ha mỗi năm. Thương nhân có lượng gạo xuất khẩu từ 50.000 đến dưới 100.000 tấn gạo/năm, năm đầu làm 800ha và những năm sau mỗi năm tăng thêm 500ha.
Riêng những thương nhân xuất khẩu từ trên 100.000 đến dưới 200.000 tấn/năm, năm đầu làm 1.200ha, những năm sau mỗi năm tăng thêm 800ha. Đặc biệt, thương nhân xuất khẩu từ 200.000 tấn/năm, năm đầu làm 2.000ha và những năm sau tăng thêm 1.500ha.
Bộ Công thương cũng đưa ra ba phương thức xây dựng vùng nguyên liệu để thương nhân lựa chọn phù hợp với điều kiện, năng lực của doanh nghiệp. Một là doanh nghiệp có thể xây dựng dự án, hoặc phương án cánh đồng lớn. Thứ hai là không xây dựng dự án, hoặc phương án cánh đồng lớn mà chỉ ký hợp đồng liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa, gạo với hộ nông dân, hoặc đại diện của người trồng lúa.
Ba là xây dựng vùng nguyên liệu thuộc quyền quản lý, sử dụng của thương nhân trên diện tích đất sản xuất lúa được Nhà nước giao, cho thuê, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất, hoặc cho thuê đất của các hộ gia đình, tổ chức, cá nhân để sản xuất lúa.
Trong ba phương án này, phương án thứ hai dự báo sẽ được các doanh nghiệp lựa chọn nhiều. Vì phương án này giúp doanh nghiệp giảm tối đa chi phí đầu tư, tận dụng được vùng nguyên liệu sẵn có của nông dân và cả kinh nghiệm quản lý sản xuất của họ.
Quy định về thương nhân kinh doanh, xuất khẩu gạo phải xây dựng vùng nguyên liệu thật sự là giải pháp rất kịp thời và hướng đến sản xuất bền vững.
Có thể bạn quan tâm

Từ việc xác định được những lợi thế, tiềm năng phát triển chăn nuôi bò sữa, nên từ năm 1995, Thanh Hóa có chủ trương lai tạo nâng cao tầm vóc đàn bò vàng nội; trong đó có việc lai tạo, phát triển đàn bò lai hướng sữa.

Trồng hoa súng phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng của miền Trung. Nắm bắt được điều này, 2 lão nông Ông Văn Trinh và Phan Ngọc Thành, phường Hòa Thọ Tây, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng quyết định đầu tư và đã thu tiền triệu mỗi ngày

Với sự năng động dám nghĩa, dám làm, từ đôi bàn tay và bằng kiến thức tự tích lũy được qua học tập, giờ anh đã có một trang trại lúa và hoa màu trị giá bạc tỷ. Anh là Lưu Trọng Khánh, thôn Phú Cường, xã Ngọc Vân, huyện Tân Yên (Bắc Giang)

Cứ thứ 7 hàng tuần, người dân ở các thôn, bản thuộc xã Hùng Lợi, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang lại tấp nập dắt trâu, bò ra bãi đất trống bên dòng sông Phó Đáy hiền hòa để trao đổi, buôn bán. Vì thế mà người dân gọi đây là chợ trâu Hùng Lợi. Hàng hóa ở đây chẳng có gì khác ngoài những chú trâu, bò lừng lững. Chợ bắt đầu họp từ lúc trời tờ mờ sáng cho đến trưa mới tan, có những phiên số lượng trâu, bò mang ra bán lên đến vài chục con. Không ai biết chính xác chợ trâu được hình thành từ khi nào nhưng giờ đây chợ trâu xã Hùng Lợi đã trở thành nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc của một xã thuần nông miền núi.

Hiện tượng cá nổi đầu vào buổi sáng rất phổ biến và thường gặp trong các ao nuôi cá, chủ yếu do thiếu ôxy. Trong ao nuôi, ôxy có được là do sự khuếch tán từ không khí và trong tầng nước, nhờ quá trình quang hợp của tảo, nhờ các máy sục khí, máy quạt nước, …Ôxy bị mất đi chủ yếu do quá trình hô hấp của tôm, cá, tảo, vi khuẩn và phân hủy các vật chất lắng tụ ở đáy ao