Thức ăn chăn nuôi nóng chuyện kiểm tra, rối việc khảo nghiệm

Trong khi đó, hễ thay đổi một chút về thành phần, hàm lượng trong TĂCN lại phải khảo nghiệm.
Tại cuộc họp cuối tuần qua với các DN trong ngành chăn nuôi tại khu vực phía Bắc nhằm khẩn trương tháo gỡ các khó khăn trước ngưỡng cửa nhiều hiệp định tự do hóa với quốc tế sắp có hiệu lực, hàng loạt các vấn đề vướng mắc đã được các DN thẳng thắn phản ánh với Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát.
Tốn hàng tỉ đồng vì chờ kiểm định
Nhiều ý kiến của DN đã đồng loạt phản ánh sự phiền hà và kiến nghị cần thay đổi ngay cơ chế, thủ tục liên quan tới việc kiểm dịch, kiểm tra chất lượng đối với nguyên liệu TĂCN nhập khẩu.
Ông Trần Thanh Quang, TGĐ Tập đoàn Quang Minh, một đơn vị NK nguyên liệu TĂCN rất lớn tại phía Bắc, cho rằng, theo quy định các lô hàng nguyên liệu TĂCN nhập khẩu về qua cảng Hải Phòng đều phải được Cục Chăn nuôi trực tiếp lấy mẫu kiểm tra các chỉ tiêu chất lượng, nếu đạt yêu cầu mới được thông quan.
Tuy nhiên, thời gian chờ đợi kết quả kiểm định chất lượng quá lâu, thường phải mất từ 7 đến 10 ngày, với hàng chục chỉ tiêu chất lượng. Trong thời gian chờ đợi, DN buộc phải lưu container tại cảng Hải Phòng với chi phí cắt cổ.
“Chi phí cho việc kiểm định chất lượng chỉ mất vài triệu đồng, nhưng phí lưu kho tới mấy trăm triệu đồng. Nếu thời gian chờ đợi dính vào thứ 7, chủ nhật nữa có khi phải lưu kho hơn 10 ngày, tốn hàng tỉ đồng” - ông Quang bức xúc.
Cùng quan điểm với ông Quang, đại diện các DN nhập khẩu nguyên liệu TĂCN cho rằng, nên chăng cần sớm thay đổi cơ chế kiểm tra chất lượng đối với nguyên liệu TĂCN nhập khẩu.
“Cục Chăn nuôi đã nắm rất rõ tên tuổi của các đơn vị XNK rồi, có đơn vị cả 10 năm nay chẳng vi phạm gì thì có nhất thiết lô hàng nào về cảng cũng phải lấy mẫu kiểm tra, bắt họ chờ đợi hàng tuần, tốn hàng tỉ đồng lưu kho hay không” - ông Phạm Văn Tiệp, GĐ Cty Cổ phần ABC đặt câu hỏi.
Cũng theo ông Tiệp, không chỉ chịu cảnh chờ chực về kiểm định chất lượng, việc kiểm dịch thực vật (KDTV) mặc dù đến nay đã có nhiều thuận lợi, song tình trạng ách tắc vẫn xảy ra thường xuyên.
Cụ thể, lực lượng cán bộ KDTV tại cảng Hải Phòng hiện quá mỏng nên vào các dịp cao điểm, đặc biệt là các kỳ nghỉ lễ tết, các DN phải chờ có khi tới 12h đêm mới làm xong thủ tục kiểm dịch.
Trước đây bên giao thông chưa kiểm soát tải trọng, 100 container chỉ cần 50 xe là chuyển hết, nhưng giờ phải 100 xe mới đủ. Cty ABC có cả 1 Cty vận tải, nhưng có tháng chi phí lưu kho do phải chờ các thủ tục kiểm định, kiểm dịch lên đến 1 tỉ đồng.
Trước những ý kiến bức xúc của DN, Bộ trưởng Cao Đức Phát đã yêu cầu Cục Chăn nuôi và Cục BVTV ngay trong tháng 5/2015 tổ chức đối thoại với các DN để tháo gỡ vướng mắc theo tinh thần giảm thiểu tối đa thời gian, chi phí cho cho các DN, đồng thời có báo cáo Bộ trưởng trước ngày 30/5/2015 về các giải pháp tháo gỡ. Đối với lực lượng cán bộ KDTV tại cảng Hải Phòng, Bộ trưởng yêu cầu Cục BVTV sớm rà soát, nếu cần thiết bổ sung ngay nhân lực, thiết bị, không để tình trạng ùn tắc về thủ tục KDTV.
Thay một chút là khảo nghiệm
Một vấn đề được nhiều DN băn khoăn nữa về sự rườm rà trong kiểm soát chất lượng TĂCN, đó là có cần thiết hay không việc khảo nghiệm TĂCN hỗn hợp hoàn chỉnh.
Ông Võ Việt Dũng, GĐ Cty TNHH SX Thương mại và Đầu tư Anh Dũng cho rằng, hiện nay đa số các DN sản xuất TĂCN đều đã có thiết bị, phần mềm rất tinh vi để xác định công thức pha trộn TĂCN.
Công thức pha trộn thế nào các DN cũng đều dựa theo các công thức khuyến cáo ưu việt nhất của các đơn vị nghiên cứu về dinh dưỡng vật nuôi quốc tế, đã được các tập đoàn lớn như Cargill, CP, Jaffa… áp dụng.
Về cơ bản, các công thức này đều có độ tin cậy rất cao. Vì vậy, việc bắt buộc các DN phải thực hiện khảo nghiệm thực tế trên vật nuôi đối với mỗi sản phẩm TĂCN hỗn hợp hoàn chỉnh là không còn cần thiết, gây tốn kém cho DN.
“Mỗi DN hiện nay có tới 40-50 công thức pha trộn TĂCN hỗn hợp, mỗi công thức là một sản phẩm khác nhau. Họ cũng liên tục thay đổi công thức, lúc này thêm chất này, lúc kia bớt chất kia.
Nếu cứ hễ thay đổi một chút là lại bắt khảo nghiệm, tốn hàng năm trời, kinh phí hàng trăm triệu đồng thì có làm nổi hay không? Bởi hiện nay cả nước có tới mấy nghìn tên sản phẩm thức ăn, trên thực tế là không có nơi nào đủ mặt bằng, cơ sở vật chất để khảo nghiệm cả” – ông Dũng nêu thắc mắc.
“Chỉ những loại TĂCN mới thực sự, nghĩa là nguyên liệu mới, công thức mới mà chưa từng ai công bố sử dụng thì mới nên bắt buộc khảo nghiệm. Chứ mỗi Cty hiện nay có mấy chục sản phẩm, thay đổi hàm lượng một chút thôi cũng bắt họ khảo nghiệm thì không tài nào làm nổi, mà vô tình còn tạo thêm một thủ tục hành chính rất phiền hà cho DN” – GS Vũ Duy Giảng, chuyên gia hàng đầu về dinh dưỡng vật nuôi, nêu quan điểm.
Có thể bạn quan tâm

Có thể nói, việc nuôi dê hiện nay của nhiều hộ dân ấp Rạch Thọ, xã Ðất Mũi có nhiều tiến triển, giúp hộ nghèo có thêm nghề “tay trái” cải thiện kinh tế, vươn lên thoát nghèo. Toàn ấp có 310 hộ với 1.500 khẩu nhưng có 35 hộ đã tận dụng đất trống, kê liếp, khoanh vuông để nuôi dê. Tổng số đàn dê hiện nay lên đến gần 500 con. Hộ nuôi nhiều nhất là 100 con, hộ ít nhất 7 con.

Giữa tháng 11-2014, trang trại Delta (xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, TP HCM), thuộc Tập đoàn Daso, nhập về gần 1.800 con bò Úc để nuôi lấy thịt. Được biết nơi đây từng là trại nuôi bò sữađiển hình của TP HCM với 800 con nhưng hiệu quả không cao.

Điển hình như Trung tâm Chăn nuôi công nghệ cao Vinashin, quy mô 200 nái và 1.000 lợn thịt; Trung tâm Sản xuất nông nghiệp công nghệ cao Hòa Bình Minh, quy mô trên 5.000 con; Công ty TNHH Bình An, quy mô 218 nái sinh sản và 1.000 lợn thịt; trang trại chăn nuôi của ông Phùng Quang Hà ở xã Nga Quán (Trấn Yên), quy mô 600 nái; Hợp tác xã Phù Nham (Văn Chấn) với quy mô 75 con bố mẹ và 500 con thương phẩm.

Cụ thể, giá trị nhập khẩu mặt hàng thủy sản tháng Tám ước đạt 114 triệu USD, đưa kim ngạch nhập khẩu 8 tháng đầu năm đạt 720 triệu USD, tăng đến 73% so với cùng kỳ năm 2013. Việt Nam nhập khẩu thủy sản chủ yếu từ Ấn Độ (chiếm 33,5% kim ngạch), Đài Loan (6,9%). Với tỷ lệ 3,1%, Trung Quốc là nguồn cung thủy sản thứ 8 cho Việt Nam.

Chuỗi liên kết triển khai có sự liên kết chặt chẽ giữa người dân với Hợp tác xã Tân Phú A1 và mối liên kết giữa Hợp tác xã và doanh nghiệp nên việc cung ứng giống lúa, vật tư nông nghiệp triển khai tốt. Dự án được triển khai mang lại hiệu quả cao hơn ngoài vùng dự án, và thể hiện tốt trách nhiệm của doanh nghiệp trong quá trình triển khai.