Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Thức Ăn Chăn Nuôi Neo Giá Lỗ Hổng Ở Quản Lý

Thức Ăn Chăn Nuôi Neo Giá Lỗ Hổng Ở Quản Lý
Ngày đăng: 20/12/2014

Giá nguyên liệu nhập khẩu giảm mạnh, thuế giá trị gia tăng (GTGT) ở khâu nhập khẩu, cước vận tải cũng đang “hạ nhiệt” là những điều kiện thuận lợi để giảm giá bán thức ăn chăn nuôi thành phẩm. Song, các đơn vị kinh doanh vẫn cố tình giữ giá.

Có điều kiện vẫn muốn neo giá

Từ đầu năm đến nay, ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi nội địa có nhiều thuận lợi để giảm giá bán sản phẩm. Thứ nhất, giá bắp nhập khẩu đã sụt giảm rất mạnh so với cùng kỳ.

Theo Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam, bình quân giá bắp nhập khẩu trong tháng 1-2014 là 6.500 đồng/ki lô gam, thì đến hết tháng 11-2014 giảm xuống còn 6.300 đồng/ki lô gam. Tương tự, giá khô dầu đậu nành nhập khẩu trong tháng 1-2014 là 14.490 đồng/ki lô gam, thì đến tháng 11 giảm xuống còn 12.600 đồng/ki lô gam và giá mì cũng từ mức 5.250 đồng/ki lô gam, giảm xuống còn 5.040 đồng/ki lô gam.

Thứ hai, các sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức, cá nhân nhập khẩu dùng làm thức ăn chăn nuôi (kể cả nhập khẩu về để sản xuất thức ăn chăn nuôi) thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT ở khâu nhập khẩu. Trong trường hợp các doanh nghiệp đã nộp thuế GTGT khi nhập khẩu sẽ được kê khai, khấu trừ thuế GTGT đầu vào khi sản phẩm được bán ra.

Thứ ba, xăng dầu được điều chỉnh giảm giá mạnh nhờ đó chi phí vận chuyển cũng giảm theo.

Vậy mà từ đầu năm đến nay, giá bán loại thức ăn chăn nuôi vẫn không giảm, chẳng hạn loại thức ăn chăn nuôi chuyên dùng cho heo nái nuôi con hiệu Maxi’ Mum, 25 ki lô gam/bao có giá 190.000 đồng/bao hay sản phẩm Boss - 112 (dành cho heo thịt từ 30 - 60 ki lô gam) cũng có giá ổn định ở mức 285.000 đồng/bao 25 ki lô gam.

Lỗ hổng quản lý!

Lý giải nguyên nhân chưa giảm giá bán sản phẩm, một doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thức ăn chăn nuôi, cho rằng do nguyên liệu đã được họ mua từ trước - khi giá nhập khẩu ở mức cao - cho nên muốn giảm giá bán cũng cần phải có độ trễ, “chứ đâu phải cái này, cái kia giảm là chúng tôi giảm được ngay đâu!”, vị này cho biết.

Tuy nhiên, ở góc độ cá nhân, ông Trần Hữu Hiệp, Vụ trưởng Vụ Kinh tế, Ban chỉ đạo Tây Nam bộ, cho rằng chính cơ chế quản lý, điều hành của Nhà nước còn nhiều “lỗ hổng” nên doanh nghiệp thường dựa vào đó để bảo vệ lợi ích, không chịu chia sẻ với người nông dân.

Cụ thể, theo ông Hiệp, với việc điều hành giá thức ăn chăn nuôi hiện nay, hiện có quy định về mức trần tăng giá, nhưng lại “quên” quy định về nghĩa vụ phải giảm giá.

Do đó, đứng ở góc độ vĩ mô, cần phải xem xét, rà soát lại hai mặt. Thứ nhất khi đã chấp nhận ngành này hoạt động theo cơ chế thị trường, thì cần bổ sung thêm những quy định chặt chẽ hơn, mà cụ thể ở đây là cơ chế bắt buộc doanh nghiệp phải có trách nhiệm hạ giá bán theo biến động của thị trường.

Thứ hai, ở một số ngành, chẳng hạn ngành sản xuất cá tra (ngành phụ thuộc rất lớn vào thức ăn thủy sản, chiếm 70% giá thành sản xuất - NV), Chính phủ có quy định đây là ngành sản xuất có điều kiện.

Thế nhưng, nếu chỉ quản lý ngành cá tra mà “quên” quản lý ngành chế biến thức ăn, rõ ràng nó sẽ tạo ra một khoảng trống vì quản lý thì phải quản lý đồng bộ toàn chuỗi. “Theo tôi, sắp tới các nhà nghiên cứu, nhà quản lý phải tính toán lại việc này như thế nào cho đồng bộ, như vậy mới phát triển toàn diện được”, ông Hiệp đề xuất.

Còn ông Nguyễn Trí Công, Chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai, cho rằng ngoài việc phải hoàn thiện các chính sách, văn bản pháp luật, nhất là những quy định bắt buộc doanh nghiệp phải hoạt động đúng cơ chế thị trường - tức có tăng có giảm theo biến động của giá cả đầu vào - thì cần kiểm tra việc thực hiện của các doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh mặt hàng này để tạo sự công bằng giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng.

“Ví dụ, khi đơn vị sản xuất có quyết định điều chỉnh giảm giá bán, nhưng về tới đại lý kinh doanh, họ cố tình không thực hiện, thì người sử dụng cũng rất khó biết được vì nông dân thường có rất ít thông tin về những diễn biến giá cả”, ông Công cho biết.

Nguồn bài viết: http://www.thesaigontimes.vn/124125/Thuc-an-chan-nuoi-neo-gia-lo-hong-o-quan-ly.html


Có thể bạn quan tâm

Nông Dân “Chết Đứng” Vì Cá Chẽm Nông Dân “Chết Đứng” Vì Cá Chẽm

100 hộ dân ở xã Tịnh Kỳ, huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi đang điêu đứng vì cá chẽm nuôi ra không bán được, thiệt hại hàng trăm triệu đồng.

08/06/2013
Thử Nghiệm Thành Công Mô Hình Trồng Rong Nho Ở Huyện Trường Sa Thử Nghiệm Thành Công Mô Hình Trồng Rong Nho Ở Huyện Trường Sa

Đoàn công tác của Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện Hải dương học vừa nghiệm thu mô hình và bàn giao sản phẩm từ mô hình trồng đáy và trồng treo rong nho biển trong bể cho UBND huyện Trường Sa. Đây là kết quả thực hiện đề tài chuyển giao kỹ thuật trồng, chế biến và bảo quản rong nho biển cho quân và dân huyện đảo Trường Sa, do Thạc sĩ Nguyễn Xuân Hòa (Viện Hải dương học) làm chủ nhiệm.

06/09/2013
Làm Giàu Trên Lưng “Tử Thần” Làm Giàu Trên Lưng “Tử Thần”

Ở Phú Vang, rất nhiều người biết đến ông Võ Diên (thôn Tân Mỹ, thị trấn Thuận An Phú Vang - Thừa Thiên Huế) – người dám biến vùng đất đầy bom mìn, lau sậy thành hồ nuôi trồng thủy sản.

06/09/2013
Hiệu Quả Kinh Tế Từ Mô Hình Tưới Nước Tiết Kiệm Hiệu Quả Kinh Tế Từ Mô Hình Tưới Nước Tiết Kiệm

Dự án “Mô hình tưới nước tiết kiệm cho dân nghèo Nam Trung Bộ tại Ninh Thuận” được Hội Nông dân tỉnh phối hợp với Tổ chức iDE triển khai thực hiện từ tháng 2-2011. Qua hơn 2 năm thực hiện, mô hình không chỉ giúp người dân giải quyết vấn đề khó khăn về nước sản xuất, nâng cao năng suất cây trồng mà còn góp phần quan trọng bảo vệ tài nguyên nước, bảo vệ môi trường trên những vùng đất khô cằn.

29/07/2013
Hiệu Quả Lúa Lai Arize B-TE1 Vùng Tôm Lúa Hiệu Quả Lúa Lai Arize B-TE1 Vùng Tôm Lúa

ĐBSCL là vựa lúa lớn nhất của cả nước, với diện tích canh tác hàng năm hơn 4 triệu ha, chiếm khoảng 50% sản lượng lúa cả nước. Tuy nhiên, đây là một trong 5 vùng bị tác động mạnh của biến đổi khí hậu nên nông nghiệp ĐBSCL đang đứng trước những thách thức lớn.

06/09/2013