Thái Bình Định Hướng Phát Triển Nuôi Cá Lồng Trên Sông

Thái Bình là tỉnh ven biển với hơn 52 km bờ biển, được bao bọc bởi hệ thống sông lớn là: Sông Hồng, sông Trà Lý, sông Luộc, sông Thái Bình, sông Diêm với ba loại hình thủy vực nước ngọt, nước lợ và nước mặn, do đó diện tích mặt nước để đưa vào nuôi trồng thuỷ sản rất lớn.
Vùng nước mặn khoảng 2.385 ha, nước lợ khoảng 3.427 ha, đối tượng nuôi trồng là: ngao, tôm, cua, cá vược, rong câu chỉ vàng…Vùng nước ngọt nuôi thủy sản là 8.614 ha, đối tượng nuôi là cá trắm, cá trôi, cá mè, cá chép, cá rô đồng, cá chim trắng, ếch Thái Lan…nhìn chung diện tích mặt nước đã được khai thác hiệu quả phục vụ cho nuôi trồng thuỷ sản.
Nhằm khai thác tiềm năng diện tích mặt nước sông, mở rộng diện tích nuôi, phát triển các đối tượng và hình thức nuôi mới, tái cơ cấu nghề nuôi trồng thuỷ sản, ngày 09/01/2014, Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh Thái Bình đã ban hành Quyết định số 71/QĐ-UBND phê duyệt Đề án Phát triển nuôi cá lồng trên sông giai đoạn 2013-2015, định hướng đến năm 2020 với mục tiêu đến năm 2020 phát triển được 3.000 lồng nuôi, sản lượng đạt 9.072 tấn đạt giá trị 252.202 triệu đồng tính theo giá cố định năm 1994 và tạo ra 3.000 việc làm mới; tốc độ tăng trưởng giá trị sản lượng giai đoạn 2015-2020 bình quân đạt 60,86%/năm.
UBND tỉnh cũng chỉ ra 6 nhóm giải pháp để đề án triển khai có hiệu quả: (1) Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, tập huấn, tờ rơi…về chủ trương chính sách, các quy định nuôi cá lồng và công khai quy hoạch khu vực sông được phát triển nuôi cá lồng; (2) Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là chủ đầu tư triển khai quy hoạch tổng thể phát triển nuôi cá lồng trình UBND tỉnh phê duyệt trên cơ sở đó UBND cấp huyện xây dựng quy hoạch chi tiết cho từng khu vực thuộc phạm vi quản lý; (3) Nhà nước hỗ trợ 10,21% tổng số vốn đầu tư phục vụ công tác quy hoạch, lắp đặt hệ thống phao tiêu, biển báo;
Xây dựng mô hình trình diễn, tập huấn kỹ thuật, tổ chức thăm quan học tập mô hình, tổ chức quản lý sản xuất tại các địa phương khác, xúc tiến thương mại, hỗ trợ tiếp nhận và chuyển giao công nghệ sản xuất giống, hỗ trợ thay thế đàn cá bỗ mẹ nước ngọt; hỗ trợ lãi xuất tiền vay đầu tư hai năm đầu tiên để thúc đẩy phong trào nuôi cá lồng trên sông; (4) UBND xã xây dựng phương án sản xuất trình UBND huyện phê duyệt và triển khai thực hiện, các đơn vị tổ chức nuôi cá lồng chủ động tổ chức sản xuất và tìm kiếm thị trường tiêu thụ, nhà nước hỗ trợ thông tin thị trường, xúc tiến thương mại, khuyến cáo doanh nghiệp đầu tư bao tiêu sản phẩm, tạo thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định; (5) Hàng năm, mở lớp tập huấn đào tạo nghề nuôi cá lồng từ nguồn vốn khuyến ngư; (6) Chủ động nghiên cứu, tiếp nhận công nghệ sản xuất giống, nuôi cá thương phẩm và các biện pháp phòng trị bệnh cho cá lồng; nghiên cứu cải tiến vật liệu làm lồng có tuổi thọ cao, chi phí thấp nhằm tăng giá trị cạnh tranh cho sản phẩm cá lồng.
Có thể bạn quan tâm

Cũng theo Bộ NN&PTNT, ước giá trị NK mặt hàng thủy sản tháng 2 đạt 72 triệu USD, đưa giá trị NK 2 tháng đầu năm đạt 172 triệu USD, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm 2014. Hai thị trường NK chính là Ấn Độ (chiếm 32,6%) và Nauy (chiếm 10,4%).

Mồng 6 Tết Ất Mùi, trong ngày đầu cả nước ra quân làm việc, các xã Glar, A Dơk, Ia Băng, Trang, Ia Pếch… thuộc huyện Đăk Đoa, tỉnh Gia Lai, thủ phủ cây cao su trên Tây Nguyên vắng lặng lạ thường. Không phải vì những vườn cao su đã trơ trụi mùa thay lá, không phải người dân lên nương làm rẫy, mà bởi 2 loại cây đem lại thu nhập chính cho người dân nơi đây sắn và cao su, năm qua giá rớt thê thảm, tác động đời sống bà con.

Theo các tiểu thương, lượng hàng tại chợ quá ít trong khi thời điểm này đang là trái vụ của nhiều loại trái cây nhưng sức mua lại mạnh do sắp tới rằm tháng Giêng. Họ dự báo giá có thể tăng lên nữa trong vài ngày tới và phải đến tận 17 - 18 tháng Giêng âm lịch mới khả năng hạ nhiệt.

“Muối SX ra không sợ bị ứ đọng, vì có hợp đồng với nhiều thương lái thu mua. Điều lo là giá muối quá thấp. Bước vào đầu vụ, các chi phí đầu tư SX đều tăng cao. Trong đó công lao động tăng mạnh nhất, hiện có giá từ 110-130 ngàn đ/công, tăng 20-30 ngàn đ/công so với năm ngoái. Vì vậy để SX muối có lãi thì giá muối thu mua phải dao động ở mức 800-1.000 đ/kg”, ông Hiến nói.

Bộ Công Thương cho biết, giá muối trên thị trường trong nước năm 2014 tương đối ổn định, với muối trắng tại miền Bắc dao động quanh mức 1.600 – 2.500 đồng/kg, miền Nam khoảng 1.000-1.400 đồng/kg. Giá muối giảm khá mạnh (khoảng 30- 40%), trong bối cảnh chi phí vận chuyển tăng mạnh khiến diêm dân khốn khổ. Ngay tại Ninh Thuận – một trong hai “thủ phủ” muối của cả nước giảm từ mức 900- 1.000 đồng/kg hồi đầu năm 2014 xuống 500- 550 đồng/kg vào giữa năm và vẫn duy trì thấp cho đến nay.