Thách Thức Sản Xuất Nông Nghiệp
Trong bối cảnh lúa gạo tồn đọng lớn, giá cả sụt giảm mạnh, cuộc sống hàng triệu nông dân trồng lúa ở ĐBSCL đang gặp khó khăn, có lẽ những người thường có ý kiến “phải bảo vệ diện tích đất trồng lúa” cũng phải đắn đo. Đã đến lúc cần có cái nhìn toàn diện về chiến lược phát triển cây lúa, có giải pháp đồng bộ thay vì chỉ tập trung vào mũi xuất khẩu gạo để vừa đảm bảo an ninh lương thực, vừa nâng cao thu nhập nông dân.
Nghịch lý cây lúa - hạt gạo
Theo Bộ NN-PTNT, với hơn 1,6 triệu ha lúa đông xuân, ĐBSCL sẽ đạt sản lượng khoảng 11,5 triệu tấn. Với mức giá 4.200 - 5.000 đồng/kg lúa tươi (tùy loại) hiện nay, đây là sự thất vọng não nề của hàng triệu nông dân ĐBSCL. Cần phải hiểu, vụ đông xuân là vụ lúa chính trong năm (sau đó là hè thu, thu đông), nên nông dân đặt kỳ vọng vào vụ lúa này rất lớn.
Song những kỳ vọng sau gần 100 ngày lui cui trên đồng của nông dân đang rơi vào thế bế tắc. Đây là điều mà nhiều người đã dự đoán khi xuất khẩu gạo đối diện nhiều khó khăn. Gánh nặng lo đầu ra có thể chồng chất khi “nông dân chưa thu hoạch hết lúa đông xuân thì hàng loạt ở nhiều địa phương đã xuống giống tiếp lúa hè thu”, như lo lắng của Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát bày tỏ.
Không ai có thể phủ nhận trong nhiều thời điểm khó khăn, sản xuất nông nghiệp, trong đó then chốt là cây lúa, đã trở thành trụ đỡ cho an sinh xã hội. “Vựa lúa ĐBSCL đã đóng góp rất lớn cho an ninh lương thực của cả nước. Năm 2013, sản lượng lúa trong vùng tiếp tục tăng, đạt sản lượng khoảng 25 triệu tấn. So với thời điểm năm 1975 chỉ đạt 4 triệu tấn, thành tựu tăng sản lượng khoảng 6 lần là rất đáng trân trọng” - TS Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, nhận định.
Tuy nhiên, đi ngược với việc gia tăng sản lượng lúa, đời sống nông dân càng ngày lại càng bấp bênh. “Nông dân trồng lúa luôn đối diện nhiều rủi ro, giá bán lúa có khi thấp hơn giá thành sản xuất. Mặn xâm nhập, khô hạn, hay mới xuống giống lúa bị mưa chụp là mất trắng.
Chỉ cần một trong những điều trên xảy ra là nông dân phải đi vay nóng” - anh Trần Văn Thức, huyện Long Mỹ, Hậu Giang, cho biết. Nguyên nhân rủi ro trong sản xuất lúa là do nông dân thiếu vốn sản xuất, phải mua phân, thuốc trừ sâu theo dạng “công nợ”, chịu lãi suất khoảng 3%/tháng. Những yếu tố trên thường buộc nông dân phải bán lúa “khẩn” để trang trải nợ nần.
Chuỗi giá trị lúa - gạo ở ĐBSCL hiện nay là một hệ thống kết nối các phân khúc từ cung cấp đầu vào, trồng trọt và thu hoạch, chế biến (xay xát, lau bóng), phân phối và tiêu thụ. Các tác nhân tham gia gồm nông dân, thương lái, nhà máy xay xát, công ty cung ứng, công ty xuất khẩu, mạng lưới bán sỉ, bán lẻ. Tham gia vào chuỗi còn có các ngành liên quan, các dịch vụ, cơ sở hạ tầng và thể chế hỗ trợ.
Các chuyên gia lúa gạo cho rằng, điểm yếu nhất trong chuỗi là những người trồng lúa. Đó là một tập hợp rời rạc của hàng triệu nông hộ sản xuất trên mảnh ruộng của mình. Do sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào thời tiết, mưa bão, lũ lụt nên nông dân trở thành nhóm yếu thế nhất, rất dễ bị tổn thương. Nông dân cũng không được bảo hiểm rủi ro, thiếu tài sản, trình độ học vấn thấp nên không có khả năng tiếp cận tín dụng. Khi giá lúa tăng, họ cũng không phải là người được hưởng lợi trọn vẹn, nhưng khi giá lúa sụt giảm thì thiệt hại trực tiếp rất lớn.
Không dễ chuyển đổi
Dù dự báo thị trường xuất khẩu gạo trong năm 2014 sẽ đầy khó khăn, nhưng nhiều địa phương như Long An, Kiên Giang, Trà Vinh vẫn phải để nông dân tăng thêm 13.000ha lúa đông xuân so với năm ngoái. Điều này cũng dễ lý giải.
Lâu nay, hàng loạt công trình thủy lợi quan trọng đều tập trung vào cây lúa như “Ngọt hóa bán đảo Cà Mau” hay “Thoát lũ ra biển Tây”, “Đê bao kiên cố” ở các tỉnh đầu nguồn nhằm sản xuất lúa 3 vụ/năm, thậm chí có nơi sản xuất 7 vụ/2 năm. Năm 2014, Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) đã hạ chỉ tiêu xuất khẩu gạo từ 7 triệu tấn xuống còn 6,5 triệu tấn. Như vậy, trong nhiều năm tiếp theo Việt Nam vẫn phải giải quyết đầu ra cho khoảng 6 - 6,5 triệu tấn gạo xuất khẩu (tương đương 12 - 13 triệu tấn lúa).
Trong khi đó, nguyên liệu thức ăn chăn nuôi lại thiếu trầm trọng và nhiều người không khỏi ngỡ ngàng khi hàng năm nước ta lại phải nhập khẩu một lượng lớn bắp và đậu nành để phục vụ sản xuất thức ăn chăn nuôi. Theo Cục Trồng trọt, nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi tiếp tục khan hiếm, giá thức ăn chăn nuôi liên tục tăng. 50% - 60% nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc (bắp, đậu nành) phải nhập từ nước ngoài.
Hàng năm, Việt Nam phải nhập khẩu khoảng 1,5 - 1,6 triệu tấn bắp hạt; 2,4 triệu tấn khô dầu đậu nành; 600.000 tấn hạt đậu nành và một số nguyên liệu khác. Với tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 3 tỷ USD, tương đương với tổng kim ngạch xuất khẩu lúa gạo.
Đề án phát triển ngành trồng trọt đến năm 2020 và tầm nhìn 2030, Bộ NN-PTNT đã đưa ra tiêu chí đến năm 2015, sản lượng bắp đạt 6 triệu tấn bắp hạt và đến năm 2020 ổn định 7,5 triệu tấn. Như vậy, so với sản lượng bắp cả nước năm 2012, hiện nay đang thiếu ít nhất 1,7 triệu tấn bắp hạt mỗi năm.
Vùng ĐBSCL và Đông Nam bộ có điều kiện thời tiết thuận lợi cho phát triển chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Tuy nhiên, do sự sắp xếp cơ cấu mùa vụ, cơ cấu giống cây trồng chuyển đổi chưa phù hợp nên việc gia tăng diện tích còn gặp nhiều khó khăn, chậm phát triển.
Câu hỏi “Trồng cây gì? Nuôi con gì?” trong mãi 2 thập niên qua vẫn chưa có lời giải đáp thỏa đáng. Ngoài lúa gạo, một số nông sản khác có giá trị rất cao như: rau quả, hoa cảnh, tôm, cá tra… cho thu nhập vài tỷ đồng/ha. Tuy nhiên, đa số nông dân không dễ tiếp cận mô hình sản xuất mặt hàng này do nguồn vốn đầu tư rất lớn, kỹ thuật cao, trong khi về thổ nhưỡng đất đai không phải nơi nào cũng trồng được.
Theo Bộ NN-PTNT, đến năm 2015, vùng ĐBSCL sẽ quy hoạch chuyển đổi 112.000ha đất gieo trồng lúa sang trồng bắp, đậu nành, rau màu… Bộ NN-PTNT cũng đang đề nghị hỗ trợ 2 triệu đồng/ha đất chuyển đổi để hỗ trợ mua giống, phân bón, thuốc trừ sâu; hỗ trợ khâu làm đất 700.000 đồng/ha.
Tuy nhiên, việc chuyển đổi phải chọn loại cây trồng nào cho phù hợp và phải đảm bảo đầu ra. Đây là một bài toán khó khi đầu ra cây lúa không đảm bảo, chuyển đổi sang các loại cây trồng khác thì chưa biết được khâu tiêu thụ ra sao.
Có thể bạn quan tâm
Huyện Phú Tân (Cà Mau) Nuôi Sò Ven Sông Cho Thu Nhập Khá Thời gian nuôi sò huyết từ 8 tháng đến một năm. Phần lớn bà con sử dụng lưới mành để bao xung quanh trên các bãi đất bồi ven sông và thả sò nuôi. Có hộ thu nhập cả trăm triệu đồng mỗi năm. Tuy nhiên, loại hình nuôi này cần được sắp xếp ổn định nhằm đảm bảo an toàn giao thông cho các phương tiện thủy.
Hạ Thủy Tàu Cá Thay Thế Tàu Bị Trung Quốc Đâm Chìm Ngày 21-1, gia đình bà Huỳnh Thị Như Hoa (phường Xuân Hà, quận Thanh Khê, Đà Nẵng) tổ chức lễ hạ thủy tàu cá ĐNa 90657 TS - thay thế tàu cá ĐNa 90152 bị Trung Quốc đâm chìm vào ngày 26-5-2014 khi đang đánh bắt trên vùng biển Hoàng Sa của Việt Nam.
Tôm Hùm Giống Ở Bình Định Được Mùa, Được Giá Tại xã Nhơn Lý (TP Quy Nhơn), trong những ngày này, cứ tầm 7 - 8 giờ sáng hàng ngày, lần lượt các ghe máy, thuyền thúng sau một đêm “săn” THG lại cập bến. Ngư dân Nguyễn Văn Hải chỉ vào xô nhựa đang đựng nửa lằm (50 con) THG, cho biết: “Hổm rày THG xuất hiện dày ở quanh các đảo nên ai cũng trúng, có người trúng 1 - 2 lằm/đêm, còn trúng nửa lằm như tui thì đếm không xuể”.
Quảng Ngãi Chi Hơn 140 Tỷ Đồng Hỗ Trợ Ngư Dân Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh Quảng Ngãi cho biết, năm 2014 đã thực hiện chi hỗ trợ cho 1.021 lượt tàu cá của ngư dân trong tỉnh theo Quyết định số 48/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ với tổng kinh phí hơn 140 tỷ đồng; trong đó hỗ trợ nhiên liệu 137,5 tỷ đồng, kinh phí còn lại là hỗ trợ mua bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm thuyền viên và máy thông tin liên lạc.
Cần Định Hướng Cho Người Chăn Nuôi Qui Mô Nhỏ Trước đây, mô hình gia cầm, chủ yếu là các loại gà và vịt xiêm theo quy mô nhỏ tại gia đình rất phát triển. Gần đây, các loại vịt ta được nhiều gia đình phát triển nuôi theo dạng nhốt chuồng với số lượng phổ biến từ 10 - 30 con, thậm chí có hộ nuôi từ 50 - 70 con theo hình thức làm chuồng nhốt vịt hoàn toàn trên cạn hoặc tận dụng ao, một đoạn kênh rạch gần nhà giăng lưới, làm chuồng nuôi nửa trên cạn, nửa dưới nước.