Tạo Đột Phá Về Giống Trong Nâng Cao Năng Suất, Chất Lượng Cà Phê

Chiếm trên 90% diện tích cà phê của cả nước, Dak Lak nói riêng và Tây Nguyên nói chung đã đưa Việt Nam trở thành quốc gia có năng suất cũng như lượng xuất khẩu cà phê vào top đầu của thế giới.
Trong các quy trình để có những "hạt vàng đen" được cải thiện cả về năng suất, chất lượng, tạo bước đột phá về giống là một trong nhiều yếu tố có tác động tích cực, trong đó Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên đóng vai trò chủ lực.
Nghiên cứu, chọn tạo để tìm ra những giống cà phê có nhiều đặc tính ưu việt, nhất là trong điều kiện canh tác cà phê ngày càng gặp nhiều do khó khăn do nguồn tài nguyên nước cạn kiệt; thị hiếu, yêu cầu tiêu dùng cao hơn; chi phí đầu vào tăng; giá cả bấp bênh..., đã được các nhà khoa học của Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên dành nhiều thời gian và tâm sức.
Nhiều nguồn vật liệu quý đã được đưa về chọn tạo, ghép, thử nghiệm là kết quả của bao tháng ngày theo dõi, lặn lội, cất công đi thu thập. Thạc sĩ Chế Thị Đa, Trưởng Bộ môn Cây công nghiệp đã từng tâm sự với chúng tôi rằng: Ngày ấy, không quản ngại vất vả, cứ nghe ở đâu có vườn cà phê đẹp là bà đi, chẳng riêng các tỉnh Tây Nguyên, mà cả Đồng Nai, Vũng Tàu.
Lúc đó, có những vùng dân cư thưa thớt, nhiều vườn cà phê ở giữa nơi hoang vu, đường sá đi lại khó khăn, đi xe máy phải quấn xích vào bánh, rồi có vùng bà phải cuốc bộ cả ngày đường, bị vắt cắn, cũng sợ nhưng nghĩ đến nguồn vật liệu quý có thể thu thập được lại không thể bỏ cuộc.
Ấy vậy mà những chuyến đi dài 5 đến 7 ngày nhưng khi về vẫn tay không chẳng phải là chuyện hiếm. Những chuyến đi chọn tạo, tìm được nguồn vật liệu quý, bà vui đến mức không ngủ được.
Sau nhiều nỗ lực chọn tạo, thu thập, nghiên cứu và thử nghiệm, từ 256 nguồn gien đầu dòng cây cà phê vối, ngay từ giai đoạn 1983-1998 đã có 3 giống cà phê từ TR1 đến TR3 được công nhận là giống quốc gia; giai đoạn 1998-2006 thêm 5 giống nữa từ TR4 đến TR8 và giai đoạn từ 2006 đến nay có thêm 4 giống từ TR9 đến TR13.
Đây là những giống cà phê mới đạt năng suất từ 4,2 tấn - 7 tấn nhân/ha, cao hơn những giống cà phê cũ trung bình 15-20%, chất lượng tốt, có cỡ hạt lớn đạt loại 1 trên 65%, kháng cao với bệnh rỉ sắt, tăng khả năng cạnh tranh mặt hàng xuất khẩu này trên thị trường thế giới.
Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên cũng đã xây dựng vườn sản xuất hạt giống cà phê vối bằng các dòng vô tính chọn lọc được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận.
Theo TS.Trần Vinh, Phó Viện trưởng, Giám đốc Công ty TNHH Đầu tư phát triển nông lâm nghiệp Ea Kmat, trong quá trình chuyển giao, các giống cà phê ghép được bà con ưa chuộng nhất là TR4, TR9, TR11 và TRS1 (giống lai bằng hạt) do ngoài những ưu điểm nêu trên, còn phù hợp với tập quán canh tác của người dân.
Chỉ tính riêng năm 2013, Công ty đã chuyển giao 800 nghìn cây giống cà phê ghép dòng vô tính và 1 triệu cây giống hạt lai TRS1. Năm 2014 dự kiến lượng tiêu thụ giống cũng tương đương như năm 2013.
Các giống cà phê đều được kiểm tra, thử nghiệm trước khi đưa vào trồng với diện tích lớn, việc chuyển giao chủ yếu qua kênh khuyến nông là chính nhằm bảo đảm cho nông dân được hướng dẫn cũng như tập huấn. Bởi theo TS Vinh, việc ứng dụng thành công những giống cà phê mới vào thực tiễn canh tác trên đồng ruộng còn tùy thuộc vào kỹ thuật trồng, chăm sóc.
Viện cũng phối hợp với các địa phương, các đơn vị khuyến nông và nông dân tổ chức tập huấn, hội thảo đầu bờ để chuyển giao, hướng dẫn quy trình kỹ thuật trồng, nhân giống cà phê vối giống mới, kỹ thuật tạo hình, tỉa cành, kỹ thuật ghép cải tạo cho cà phê vối, quản lý dinh dưỡng cho cây cà phê vối, cà phê chè,…
Thống kê sơ bộ trong 3 năm trở lại đây, bà con nông dân ở 5 tỉnh Tây Nguyên đã cưa đốn trên 40 nghìn héc-ta cà phê vối hết chu kỳ kinh doanh, bị bệnh rỉ sắt và thay thế bằng các dòng cà phê vối vô tính chọn lọc. Hiện nay, nhiều vườn đã cho thu hoạch.
Các giống cà phê của Viện được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận cũng trở thành những giống cà phê chủ lực cho chương trình phát triển cà phê bền vững cũng như tái canh cà phê hiện nay.
Tuy nhiên, trước thực tế nhiều cơ sở kinh doanh giống nở rộ, thậm chí lợi dụng thương hiệu “Ea Kmat” như hiện nay, điều mà các nhà khoa học của Viện muốn gửi gắm đến bà con nông dân là bà con nên tìm đến đúng địa chỉ để mua được những cây giống đúng nguồn gốc, xuất xứ, bảo đảm chất lượng.
Có thể bạn quan tâm

Một nhóm nghiên cứu thuộc Trường đại học Cần Thơ, Chi cục nuôi trồng thủy sản tỉnh Trà Vinh, Viện nuôi trồng thủy sản II (TP.HCM) đã khảo sát thành phần dinh dưỡng và lợi ích sử dụng bùn đáy ao nuôi cá tra trong nông nghiệp tại đồng bằng sông Cửu Long, nhằm mục đích phân tích thành phần dinh dưỡng của bùn đáy ao nuôi cá tra thâm canh ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Trước tình trạng cá nổi đầu hàng loạt trên một số tuyến kênh, rạch ở địa bàn xã Vị Thủy, huyện Vị Thủy trong những ngày gần đây, Chi cục Thủy sản Hậu Giang đã đưa ra khuyến cáo người nuôi thủy sản một số biện pháp nhằm giảm nguy cơ ảnh hưởng xấu đến đàn cá trong ao.
Hiện nay, nhiều hộ nuôi tôm nước lợ (chủ yếu tôm sú, tôm thẻ) đang gặp khó và lợi nhuận không cao, thậm chí còn thua lỗ. Lý giải về vấn đề này, ông Dương Văn Đởm, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT) huyện Cầu Ngang (Trà Vinh) phân tích: Với giá thành tôm nguyên liệu giảm mạnh (15.000 - 20.000 đồng/kg đối với tôm thẻ chân trắng và 35.000 - 40.000 đồng/kg đối với tôm sú), cùng với đó là năm nay do ảnh hưởng của thời tiết, làm cho tôm nuôi bị bệnh, nên tăng chi phí sản xuất.

Đồng Tháp có lợi thế tự nhiên rất lớn để phát triển con cá điêu hồng. Diện tích cá điêu hồng trong lồng, bè không ngừng biến động qua từng năm.

Sau buổi tập huấn chuyển giao kỹ thuật nuôi ếch thương phẩm tại xã Kim Long, huyện Châu Đức vào ngày 23/6/2015 vừa qua, chúng tôi có dịp tham quan mô hình nuôi ếch trong bể của hộ anh Ngô Văn Bài ở tổ 14, ấp Hưng Long, xã Kim Long.