Tăng Cường Quản Lý Cơ Sở Nuôi Động Vật Hoang Dã

Để đảm bảo các quy định về nuôi động vật hoang dã (ĐVHD), Chi cục Kiểm lâm tỉnh Khánh Hòa đã triển khai nhiều biện pháp quản lý.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 204 cơ sở gây nuôi ĐVHD đã được cấp giấy chứng nhận với hơn 26.900 cá thể các loại. Trong đó, 17 cơ sở nuôi 22.970 cá thể ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm; 182 cơ sở nuôi 3.917 cá thể ĐVHD thông thường và một số cơ sở nuôi các loại ĐVHD khác. Các loài được nuôi chủ yếu gồm: gấu, khỉ, rắn, cá sấu nước ngọt, nhím, heo rừng, hươu sao...
Ngoài 3 trại nuôi của Công ty Cổ phần Du lịch Long Phú, Khu du lịch và giải trí Nha Trang, Công viên Du lịch Yang Bay nuôi ĐVHD để phục vụ khách du lịch thì 201 cơ sở còn lại đều nuôi ĐVHD với mục đích thương mại. Hiện nay, số ĐVHD được các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế nuôi chiếm hơn 80% tổng đàn. Các hộ gia đình và cá nhân chủ yếu nuôi theo phong trào, số lượng cá thể ĐVHD của mỗi gia đình không nhiều.
Theo ông Lê Thanh Hóa - Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm Ninh Hòa, sở dĩ thời gian gần đây, hoạt động gây nuôi các loài ĐVHD ở hộ gia đình và cá nhân giảm nhiều so với trước là do vốn đầu tư rất lớn; trong khi đó, giá cả đầu ra của một số loài ĐVHD xuống thấp, nhất là nhím, heo rừng...
Việc gây nuôi sinh sản ĐVHD là một trong những biện pháp để bảo tồn nguồn gen, hạn chế khai thác từ tự nhiên, đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế, tạo việc làm cho nhiều lao động. Tuy nhiên, nếu quản lý không tốt sẽ rất dễ xảy ra tình trạng các đối tượng xấu lợi dụng để buôn bán ĐVHD trái phép. Đối với các cơ sở gây nuôi ĐVHD hung dữ, nếu không đảm bảo được các yếu tố an toàn về chuồng trại thì rất dễ gây nguy hiểm tới tính mạng con người...
Một vấn đề khác được ngành Kiểm lâm tỉnh quan tâm là việc phòng ngừa dịch bệnh cho ĐVHD nuôi tại các cơ sở. Hiện nay, công tác này gặp không ít khó khăn do chưa có quy định cụ thể, việc phòng, chống dịch bệnh trong chăn nuôi các loài ĐVHD chưa có sự quản lý của cơ quan Thú y.
Qua kiểm tra của Chi cục Kiểm lâm tỉnh, hiện nay, chỉ có các trại nuôi ĐVHD của các đơn vị thành viên Tổng Công ty Khánh Việt và cơ sở nuôi ĐVHD của Khu du lịch và giải trí Nha Trang là có cán bộ thú y chuyên theo dõi tình hình dịch bệnh của thú nuôi; còn lại, kiến thức phòng, ngừa dịch bệnh các loài ĐVHD ở các cơ sở nuôi ĐVHD thuộc phạm vi quản lý của hộ gia đình, cá nhân rất hạn chế.
Để quản lý tốt các cơ sở nuôi nhốt ĐVHD, Chi cục Kiểm lâm tỉnh chỉ đạo Hạt Kiểm lâm các địa phương phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, cơ sở, ngành chức năng nắm chắc tình hình gây nuôi ĐVHD trên địa bàn, thẩm định các điều kiện gây nuôi trước khi cấp giấy đăng ký trại nuôi. Bên cạnh đó, Chi cục kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm để đưa hoạt động gây nuôi ĐVHD đi vào nề nếp.
Ông Trần Minh Thu - Phó Chi cục trưởng phụ trách Chi cục Kiểm lâm tỉnh cho biết, đến nay, Chi cục đã cấp 100% sổ theo dõi khai báo xuất nhập ĐVHD đến từng tổ chức, cá nhân, hộ nuôi ĐVHD; kiểm tra định kỳ về điều kiện chuồng trại an toàn cho người và vật nuôi nhốt, công tác vệ sinh môi trường, kỹ thuật chăm sóc, ngăn ngừa dịch bệnh, việc ghi chép sổ sách theo dõi đàn ĐVHD nuôi; xử lý nghiêm những trường hợp mua ĐVHD không có nguồn gốc hợp pháp đưa vào nhập đàn.
Bên cạnh đó, Chi cục còn tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về quản lý, bảo vệ ĐVHD cho cán bộ, công chức kiểm lâm, cán bộ, công chức ở các cơ quan chức năng, nâng cao nhận thức của tổ chức, cá nhân tham gia nuôi ĐVHD theo quy định của pháp luật. Để đảm bảo các quy định về nuôi động vật hoang dã (ĐVHD), Chi cục Kiểm lâm tỉnh Khánh Hòa đã triển khai nhiều biện pháp quản lý.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 204 cơ sở gây nuôi ĐVHD đã được cấp giấy chứng nhận với hơn 26.900 cá thể các loại. Trong đó, 17 cơ sở nuôi 22.970 cá thể ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm; 182 cơ sở nuôi 3.917 cá thể ĐVHD thông thường và một số cơ sở nuôi các loại ĐVHD khác.
Các loài được nuôi chủ yếu gồm: gấu, khỉ, rắn, cá sấu nước ngọt, nhím, heo rừng, hươu sao... Ngoài 3 trại nuôi của Công ty Cổ phần Du lịch Long Phú, Khu du lịch và giải trí Nha Trang, Công viên Du lịch Yang Bay nuôi ĐVHD để phục vụ khách du lịch thì 201 cơ sở còn lại đều nuôi ĐVHD với mục đích thương mại. Hiện nay, số ĐVHD được các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế nuôi chiếm hơn 80% tổng đàn.
Các hộ gia đình và cá nhân chủ yếu nuôi theo phong trào, số lượng cá thể ĐVHD của mỗi gia đình không nhiều. Theo ông Lê Thanh Hóa - Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm Ninh Hòa, sở dĩ thời gian gần đây, hoạt động gây nuôi các loài ĐVHD ở hộ gia đình và cá nhân giảm nhiều so với trước là do vốn đầu tư rất lớn; trong khi đó, giá cả đầu ra của một số loài ĐVHD xuống thấp, nhất là nhím, heo rừng...
Việc gây nuôi sinh sản ĐVHD là một trong những biện pháp để bảo tồn nguồn gen, hạn chế khai thác từ tự nhiên, đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế, tạo việc làm cho nhiều lao động. Tuy nhiên, nếu quản lý không tốt sẽ rất dễ xảy ra tình trạng các đối tượng xấu lợi dụng để buôn bán ĐVHD trái phép. Đối với các cơ sở gây nuôi ĐVHD hung dữ, nếu không đảm bảo được các yếu tố an toàn về chuồng trại thì rất dễ gây nguy hiểm tới tính mạng con người...
Một vấn đề khác được ngành Kiểm lâm tỉnh quan tâm là việc phòng ngừa dịch bệnh cho ĐVHD nuôi tại các cơ sở. Hiện nay, công tác này gặp không ít khó khăn do chưa có quy định cụ thể, việc phòng, chống dịch bệnh trong chăn nuôi các loài ĐVHD chưa có sự quản lý của cơ quan Thú y.
Qua kiểm tra của Chi cục Kiểm lâm tỉnh, hiện nay, chỉ có các trại nuôi ĐVHD của các đơn vị thành viên Tổng Công ty Khánh Việt và cơ sở nuôi ĐVHD của Khu du lịch và giải trí Nha Trang là có cán bộ thú y chuyên theo dõi tình hình dịch bệnh của thú nuôi; còn lại, kiến thức phòng, ngừa dịch bệnh các loài ĐVHD ở các cơ sở nuôi ĐVHD thuộc phạm vi quản lý của hộ gia đình, cá nhân rất hạn chế.
Để quản lý tốt các cơ sở nuôi nhốt ĐVHD, Chi cục Kiểm lâm tỉnh chỉ đạo Hạt Kiểm lâm các địa phương phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, cơ sở, ngành chức năng nắm chắc tình hình gây nuôi ĐVHD trên địa bàn, thẩm định các điều kiện gây nuôi trước khi cấp giấy đăng ký trại nuôi. Bên cạnh đó, Chi cục kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm để đưa hoạt động gây nuôi ĐVHD đi vào nề nếp.
Ông Trần Minh Thu - Phó Chi cục trưởng phụ trách Chi cục Kiểm lâm tỉnh cho biết, đến nay, Chi cục đã cấp 100% sổ theo dõi khai báo xuất nhập ĐVHD đến từng tổ chức, cá nhân, hộ nuôi ĐVHD; kiểm tra định kỳ về điều kiện chuồng trại an toàn cho người và vật nuôi nhốt, công tác vệ sinh môi trường, kỹ thuật chăm sóc, ngăn ngừa dịch bệnh, việc ghi chép sổ sách theo dõi đàn ĐVHD nuôi; xử lý nghiêm những trường hợp mua ĐVHD không có nguồn gốc hợp pháp đưa vào nhập đàn.
Bên cạnh đó, Chi cục còn tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về quản lý, bảo vệ ĐVHD cho cán bộ, công chức kiểm lâm, cán bộ, công chức ở các cơ quan chức năng, nâng cao nhận thức của tổ chức, cá nhân tham gia nuôi ĐVHD theo quy định của pháp luật.
Có thể bạn quan tâm

Gia đình ông Nguyễn Vân ở thôn 8 hiện có hơn 1.000 trụ tiêu đều phát triển tốt, nhiều năm nay, trung bình luôn cho sản lượng 4 tấn. Theo ông Vân thì hồ tiêu là cây trồng khó tính, đòi hỏi người nông dân phải tuân thủ chặt chẽ những kỹ thuật trong tất cả các khâu từ chọn giống, chuẩn bị đất đai, trồng và chăm sóc.

Đầu năm 2014, bản Nậm Nèn 1, xã Nậm Nèn, huyện Mường Chà bắt đầu xuất hiện một số mô hình nuôi tằm ăn lá sắn. Đến nay, sau hơn nửa năm, các mô hình ấy đều đang phát triển tốt, người dân đã thu hoạch được nhiều lứa tằm thịt, tạo thêm nguồn thu nhập đáng kể trong thời điểm nông nhàn.

Dù mới được thành lập và đi vào hoạt động được gần 2 năm nhưng mô hình Câu lạc bộ (CLB) giống cây trồng tại xã Bình Thạnh, huyện Cao Lãnh đã mang lại hiệu quả thiết thực trong việc hỗ trợ giống, kinh nghiệm sản xuất cho nông dân trong xã. CLB cũng góp phần phát triển kinh tế và nâng cao đời sống hội viên nông dân trên địa bàn.

Theo bà con nông dân, năng suất hoa màu năm nay tương đối khá nhưng giá cả bấp bênh, đặc biệt là càng gần cuối vụ, một số loại hoa màu như hành lá, ớt, bắp lai rớt giá nên bà con có lãi ít, thậm chí một số diện tích phá huề.

Hiện nay, nhu cầu về các sản phẩm sạch và an toàn trở thành bức thiết đối với người tiêu dùng. Tuy nhiên, có một nghịch lý đang tồn tại là khi người nông dân bắt đầu sản xuất rau an toàn thì họ lại vướng phải nhiều rào cản từ thị trường tiêu thụ.