Tân Phú Đông (Tiền Giang) Bảo Vệ Môi Trường Để Phát Triển Bền Vững Vùng Nuôi Thủy Sản

Với lợi thế về điều kiện tự nhiên, địa hình cù lao giáp biển, ngành nuôi trồng thủy sản (NTTS) đã có những đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội của huyện Tân Phú Đông (Tiền Giang) trong thời gian qua. Tuy nhiên, do sự phát triển nhanh, thiếu quy hoạch, công tác quản lý môi trường còn khó khăn dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường trên lĩnh vực này là điều khó tránh khỏi.
Nghề NTTS, nhất là nuôi tôm ở huyện đã có những bước phát triển vượt bậc về diện tích và sản lượng với quy mô lớn. Từ năm 2008 đến nay, NTTS được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của huyện. Theo đó, các công trình kết cấu hạ tầng như đường giao thông, lưới điện nông thôn…tiếp tục được mở rộng trong các vùng nuôi, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất và bảo đảm vận chuyển lưu thông hàng hóa.
Công tác chuyển giao khoa học - kỹ thuật, hỗ trợ vốn, giống cho người nuôi cũng được chú trọng hơn. Nhờ vậy, diện tích NTTS trên địa bàn huyện liên tục tăng qua từng năm. Nếu như năm 2010, toàn huyện có khoảng 3.000 ha thì đến đầu năm 2014 đã tăng lên 5.000 ha, với các mô hình sản xuất cũng ngày càng đa dạng và phong phú hơn.
Chủ yếu là con tôm được nuôi theo 2 hình thức chính là quãng canh và công nghiệp. Không những diện tích thả nuôi mà năng suất, sản lượng thu hoạch cũng tăng từ 0,5 - 1 tấn/ha. Đối với tôm sú, năng suất thu hoạch bình quân từ 5 - 7 tấn/ha và từ 6 - 8 tấn/ha đối với tôm thẻ chân trắng, sau khi trừ chi phí sản xuất, người nuôi thu lợi nhuận từ 200 - 300 triệu đồng/ha/vụ.
Ngoài ra, còn có hơn 500 ha mô hình lúa - tôm, cùng với hàng trăm ha được đưa vào khai thác, nuôi nghêu, sò giống tại khu vực cồn Ngang, cồn Cống. xã Phú Tân... góp phần đa dạng hóa giống loài thuỷ sản trên địa bàn huyện.
Hiện nay, không chỉ ở 2 xã giáp biển Phú Tân, Phú Đông, mà còn phát triển rộng ra các xã còn lại như: Tân Thạnh, Phú Thạnh và Tân Phú. Tính chung hiện có 5/6 xã trong huyện đã hình thành được vùng nuôi tôm trong bước chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi thích hợp với môi trường thổ nhưỡng vùng đất cù lao.
Tuy nhiên, việc huy hoạch vùng nuôi chưa đồng bộ, phong trào nuôi tôm tự phát còn khá phổ biến ở các xã, dẫn đến tình trạng quản lý môi trường, dịch bệnh trên tôm lỏng lẻo là những nguyên nhân chính làm phát sinh mầm bệnh trên tôm trong thời gian qua.
Điều đáng chú ý là các hoạt động NTTS đã phát sinh các nguồn chất thải rắn, chất thải lỏng, khí thải gây ô nhiễm môi trường, với các nguồn thải chính như: Bùn thải trong quá trình nuôi tôm công nghiệp, nuôi tôm quãng canh, chứa các nguồn thức ăn dư thừa thối rữa bị phân hủy, các loại hóa chất và thuốc kháng sinh, các loại khoáng chất độc hại có trong đất phèn.
Thành phần chủ yếu của chất thải gồm thực phẩm, giấy, ni-lông… đều có thể gây ra các tác động đến môi trường và nhiễm vi sinh trong quá trình phân hủy tạo ra, cho nên cần phải được xử lý theo quy chuẩn môi trường quy định.
Có thể khẳng định, NTTS tiếp tục là một ngành kinh tế quan trọng của huyện trong thời gian tới. Tuy nhiên, để phát triển một cách bền vững, cần tăng cường vai trò quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường của chính quyền các cấp và các cơ quan có liên quan đối với các cơ sở NTTS.
Đặc biệt, nâng cao năng lực thẩm định, báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án đầu tư, cũng như tuân thủ nghiêm ngặt quy trình lập và thẩm định đánh giá tác động môi trường theo quy định của pháp luật.
Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động bảo vệ môi trường (BVMT) của các tổ chức, cá nhân, hộ NTTS trên địa bàn huyện, kiên quyết xử lý triệt để những hành vi cố tình vi phạm; đồng thời, nâng cao nhận thức về BVMT cho các tổ chức, cá nhân, nhằm tăng cường hiệu lực quản lý về BVMT đối với các cơ sở NTTS.
Bên cạnh đó, công tác quy hoạch phát triển NTTS của huyện cần dựa trên cơ sở phân vùng sinh thái, phát triển hạ tầng kỹ thuật cấp thoát nước và xử lý chất thải đối với từng mô hình nuôi tôm công nghiệp hoặc quãng canh để đáp ứng yêu cầu về vệ sinh môi trường, ngăn ngừa bệnh dịch và các quy chuẩn môi trường đã quy định; tập trung đầu tư và vận hành các hệ thống xử lý chất thải trong sản xuất và sinh hoạt trên vùng nuôi theo đúng quy định để BVMT, góp phần bảo vệ sức khỏe cho người lao động tại các vùng nuôi tôm trên địa bàn huyện hiện nay.
Có thể bạn quan tâm

Theo báo cáo của Phòng Nông nghiệp và PTNT Vũng Liêm, trong tháng 10, trên địa bàn huyện có 2 nơi phát hiện đàn bò có triệu chứng bệnh lở mồm long móng ở thị trấn Vũng Liêm và xã Hiếu Thành, nhưng đã được khống chế. Trên đàn gia cầm, tình hình dịch bệnh ổn định, có một số bệnh thông thường xảy ra ở một số nơi như bệnh Gumboro, bại liệt trên vịt,...; không có bệnh cúm trên đàn gia cầm.

Cấu trúc ngành chăn nuôi đang thay đổi nhanh, từ các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ đang chuyển sang mô hình chăn nuôi công nghiệp khép kín quy mô lớn, liên kết hợp đồng với doanh nghiệp cung cấp đầu vào và bao tiêu sản phẩm tại các hệ thống siêu thị và phân phối lớn. Tuy nhiên, ngành chăn nuôi Việt Nam còn phụ thuộc nhiều từ nhập khẩu con giống, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, trong khi giá các yếu tố này ngày càng tăng cao…

Trong khi nhiều chủ trang trại, gia trại chăn nuôi gặp khó khăn do thiếu vốn, dịch bệnh và thị trường bấp bênh thì mô hình chăn nuôi lợn của gia đình ông Đào Văn Hiểu, ở xóm Rẫy, xã Đào Xá (Phú Bình) vẫn đứng vững nhờ biết liên kết với doanh nghiệp, áp dụng mô hình chăn nuôi lợn gia công theo kỹ thuật tiên tiến. Tuy mới xây dựng được hơn 2 năm nay, song mô hình đã mang lại hiệu quả rõ rệt.

Thông tin từ ngành nông nghiệp huyện Phụng Hiệp, đến nay, toàn huyện đã thu hoạch gần 6.000ha mía, chiếm hơn 71% diện tích toàn huyện. Hiện tại, các vùng mía thường bị ngập sâu ở các xã như: Hòa Mỹ, Phương Bình, Hòa An, Phụng Hiệp,… bà con thu hoạch mía cơ bản dứt điểm, chỉ còn lại ở những địa phương có nền đất cao, không bị đe dọa nước lũ.

Anh Đạo cho biết, mới đầu nghĩ chỉ thử làm cho vui, nào ngờ cây mướp lại đậu trái ngoài mong đợi. Để có được những quả mướp hương dài, thơm như vậy, anh đã gieo đồng thời 7 hạt mướp hương với 7 hạt mướp giống quả dài. Khi cây nảy mầm, phát triển được 15 ngày, anh Đạo cắt ngọn mướp hương ghép vào gốc mướp quả dài.