Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Tái cơ cấu chăn nuôi trong xu thế hội nhập TPP

Tái cơ cấu chăn nuôi trong xu thế hội nhập TPP
Ngày đăng: 21/11/2015

Để chăn nuôi phát triển nhanh và bền vững cần thay thế dần quy mô nhỏ lẻ thành quy mô vừa và lớn

Tại hội thảo khoa học “Vai trò của khoa học và công nghệ trong tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Võ Anh Khoa - Trưởng Bộ môn Chăn nuôi Khoa Nông nghiệp và sinh học ứng dụng, Trường Đại học Cần Thơ đã phát biểu một số nội dung liên quan đến tái cơ cấu chăn nuôi trong xu thế hội nhập TPP.

Tại ĐBSCL, mặc dù gần đây có sự chuyển biến rõ nét về quy mô đàn trong cơ cấu chăn nuôi, nhờ vào các chủ trương mới trong chương trình tái cơ cấu nông nghiệp của địa phương và sự đầu tư của các trang trại, công ty (theo hệ thống gia công), nhưng tầm vóc và hiệu quả chăn nuôi ở ĐBSCL vẫn còn thua xa các tỉnh miền Đông Nam bộ.

Theo PGS.TS Đỗ Võ Anh Khoa, nguyên nhân chủ yếu là do: tập quán sản xuất, chi phí đầu tư xây dựng (cấu trúc đất), thị trường tiêu thụ (thu nhập thấp, quy mô nhỏ lẻ, thực phẩm tự nhiên);

Giá thành sản phẩm (vận chuyển nguyên liệu và sản phẩm sau giết mổ, đồng nhất chất lượng...); biên độ dao động của giá cả thị trường, kiểm soát dịch bệnh quy mô nhỏ lẻ, xuất khẩu), vốn đầu tư, kỹ thuật, chất lượng con giống...

Đề cập đến vấn đề tái cơ cấu chăn nuôi trong xu thế hội nhập Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), PGS.TS Đỗ Võ Anh Khoa cho rằng, để chăn nuôi phát triển nhanh và bền vững cần thay thế dần quy mô nhỏ lẻ thành quy mô vừa và lớn trong mối liên kết chuỗi giá trị sản xuất - chế biến - kinh doanh sản phẩm chăn nuôi.

Điều này cần được thực hiện quy mô cấp vùng chứ không chỉ riêng một địa phương nào cả.

Bởi chi phí đầu tư, nguồn vốn lưu động (duy trì sản xuất trong nhiều năm liên tục, tái đàn...) và giá trị tài sản chăn nuôi là khá lớn.

Đầu tư hỗ trợ chăn nuôi (chính sách, vốn...) vì thế cũng cần chú ý vào các trang trại/doanh nghiệp...

vì họ có ý tưởng, kinh nghiệm và tư duy phát triển tốt.

Như thế mức độ an toàn, bảo tồn nguồn vốn sẽ chắc chắn hơn.

Trong xu thế hội nhập TPP, giá cả thị trường nguyên liệu và sản phẩm chăn nuôi có thể sẽ dao động theo biên độ hẹp và ổn định hơn, giúp người chăn nuôi tiên đoán giá thành để có kế hoạch tổ chức sản xuất hợp lý (tăng - giảm đàn, hướng sản xuất...).

Bước vào cuộc chơi TPP nghĩa là biên giới của thị trường sản phẩm và thị trường lao động sẽ rộng hơn.

Cơ hội và thách thức sẽ đính kèm.

Sự sáp nhập của các công ty trong nước sẽ làm đối trọng với các công ty ngoài nước, hoặc sự thâu tóm các doanh nghiệp nhỏ... là điều có thể xảy ra trong tương lai gần.

Chia sẻ về vai trò của khoa học công nghệ (KHCN) trong sản xuất chăn nuôi bền vững, PGS.TS Đỗ Võ Anh Khoa nhận định, ngày nay chăn nuôi cũng không thể tách rời khỏi đời sống cơ bản và ngày càng cao của con người.

Sản phẩm chăn nuôi thông thường (thịt, trứng, sữa...), cả lượng và chất ngày càng được chú trọng cho người già và trẻ con, kể cả đối với những gia đình có thu nhập thấp.

KHCN là động lực để phát triển kinh tế - xã hội.

Để KHCN đi vào sản xuất chăn nuôi có hiệu quả hơn, đầu tư nghiên cứu chăn nuôi cần phải dựa trên quy hoạch tổng thể, xác định cây thức ăn và con giống chủ lực của vùng.

Song song đó, tập trung đẩy mạnh công tác chuyển giao khoa học kỹ thuật giữa các địa phương để đưa nhanh kết quả nghiên cứu vào sản xuất, tránh trùng lắp, giảm thiểu chi phí đầu tư.

Nghiên cứu tạo ra các sản phẩm chăn nuôi (giống, thịt, trứng, sữa...) có những ưu điểm riêng để không cạnh tranh với các sản phẩm nhập nội, đồng thời có thể xuất khẩu tốt (ví dụ: giống lai có sức kháng và chất lượng thơm ngon, chăn nuôi hữu cơ/an toàn sinh học...).

Thực hiện các chương trình nghiên cứu quy mô cấp vùng dựa trên sự kết hợp kinh phí và phối hợp thực hiện của các bộ, ngành trung ương và các địa phương.

Giải quyết dứt điểm từng bước một và từng vấn đề một, tránh đầu tư nghiên cứu rời rạc, không có chiều sâu hay đầu tư nửa vời; khâu đầu tiên của chăn nuôi là giải quyết vấn đề con giống, kế đến là thức ăn và các vấn đề khác.

Việc chuyển giao công nghệ và tiến bộ đến tay người chăn nuôi phải mang tính lặp lại, quy trình đồng bộ, đảm bảo chương trình/dự án khi kết thúc thì người chăn nuôi vẫn tiếp tục thực hiện và sống được với ngành; xây dựng trung tâm chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, thiết lập kênh liên kết chuỗi giá trị, giới thiệu và quảng bá sản phẩm chăn nuôi khu vực.

Phát triển chăn nuôi không chỉ tập trung vào các loài vật cung cấp thực phẩm mà còn có thể phát triển các loài vật khác để giảm mức độ cạnh tranh, nâng cao giá trị sản phẩm chăn nuôi hoặc để phát triển các công nghệ khác (thuốc và biệt dược điều trị cho người, sản phẩm khác ngoài thịt, trứng sữa...).

Các địa phương nên xây dựng Trung tâm nghiên cứu - Chuyển giao khoa học cấp vùng hoặc dựa vào thế mạnh của các trường đang đứng chân trên địa bàn để đặt hàng sản phẩm.

Trong đó, có cam kết hiệu quả và giá trị thương mại hóa sản phẩm khoa học, tránh tình trạng lãng phí nguồn lao động và tài chính.

Đến nay, sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành của địa phương và các địa phương chưa nhịp nhàng và chặt chẽ.

Vì vậy, vai trò của Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ cần phải thể hiện một cách mạnh mẽ và rõ nét hơn để nâng cao tầm vóc, sức mạnh của KHCN trong đổi mới sản xuất, đưa hệ thống chăn nuôi nói riêng và hệ thống nông nghiệp nói chung lên một tầm cao mới.


Có thể bạn quan tâm

Giá Tôm Nước Lợ Năm 2015 Thật Khó Đoán Giá Tôm Nước Lợ Năm 2015 Thật Khó Đoán

Từ năm 2013 đến nay, giá tôm thế giới liên tục nằm ở mức cao do sản lượng tôm giảm mạnh dưới ảnh hưởng của Hội chứng tôm chết sớm (EMS). Năm 2014, EMS trên tôm tại một số nước đã cơ bản được khống chế nhưng vẫn còn hoành hành tại một số nước sản xuất tôm lớn trên thế giới như Trung Quốc, Thái Lan. Thật khó có thể đưa ra dự báo về giá tôm khi mà ảnh hưởng của EMS và kết quả khắc phục sau đó vẫn rất khó dự đoán.

05/03/2015
Bám Biển Xa Khơi, Ngư Dân Hái Nhiều Lộc Biển Đầu Năm Bám Biển Xa Khơi, Ngư Dân Hái Nhiều Lộc Biển Đầu Năm

Tại vùng biển miền Trung như Nghệ An, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Phú Yên đến các vùng biển Nam Bộ như Kiên Giang, Cà Mau… ngư dân phấn khởi khi trúng đậm mùa tôm, cá biển. Thêm vào đó, một số loại hải sản được giá như cá cơm, cá nục, cá thu, cá ngừ, tôm, nhuyên thể… giúp các tàu đánh bắt tăng thêm thu nhập.

05/03/2015
Đề Án “Gạo Thơm - Tôm Sạch” Ở Vùng Tôm Lúa Mỹ Xuyên (Sóc Trăng) Đề Án “Gạo Thơm - Tôm Sạch” Ở Vùng Tôm Lúa Mỹ Xuyên (Sóc Trăng)

Người nuôi tôm ở Mỹ Xuyên (Sóc Trăng) tự hào với quy trình luân canh tôm – lúa suốt thời gian dài từ năm 1998 đến năm 2008. Vừa thắng tôm, vừa canh tác được một vụ lúa, mức độ rủi ro thấp, hầu hết nông dân 6 xã vùng tôm lúa Mỹ Xuyên khá lên từ quy trình bền vững này.

05/03/2015
Người Nuôi Tôm Chưa Yên Tâm Người Nuôi Tôm Chưa Yên Tâm

Thời tiết sau Tết Nguyên đán đã nắng ấm, nhiều hộ nuôi tôm trong tỉnh Phú Yên đang thả giống. Thế nhưng, chất lượng con giống chưa được kiểm soát chặt chẽ khiến nhiều hộ nuôi tôm không yên tâm. Sở NN-PTNT đề nghị các địa phương có nuôi tôm tăng cường quản lý vùng nuôi, kiểm soát chặt chẽ nguồn tôm giống không rõ nguồn gốc, chưa được kiểm dịch.

05/03/2015
Năm 2015, Ngành Nông Nghiệp Tỉnh Phấn Đấu Khai Thác Và Nuôi Trồng 191.200 Tấn Thủy Sản Năm 2015, Ngành Nông Nghiệp Tỉnh Phấn Đấu Khai Thác Và Nuôi Trồng 191.200 Tấn Thủy Sản

Tuy vậy, nghề nuôi trồng thủy sản của tỉnh ta còn thiếu tính bền vững, tình trạng xả nước thải trực tiếp từ các ao hồ ra môi trường diễn ra phổ biến ở nhiều địa phương gây ô nhiễm môi trường. Trong khi đó, công tác phòng chống dịch bệnh cho vật nuôi chưa được quan tâm đúng mức, nên dịch bệnh đã phát sinh ở nhiều địa phương. Sản lượng thủy sản khai thác được khá lớn, nhưng chất lượng không cao, nên giá trị xuất khẩu còn thấp…

05/03/2015