Sóc Trăng Phát Triển Đàn Bò Sữa

Uỷ ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng triển khai Dự án phát triển bò sữa giai đoạn 2013-2020; Đây là một trong những dự án chiến lược tái cơ cấu nền kinh tế của tỉnh.
Những năm gần đây, nuôi bò sữa ở Sóc Trăng ngày càng phát triển, tăng cả về sản lượng sữa và quy mô đàn. Giá thu mua sữa nguyên liệu gần đây cũng tăng nhẹ nên bà con rất phấn khởi. Nếu năm 2004 toàn tỉnh chí có 477 con bò sữa, thì đến nay đã hơn 4.700 con, sản lượng sữa đạt 16 tấn/ngày.
Bình quân mỗi con bò cho thu nhập 45-50 triệu đồng/năm, sau khi trừ chi phí và nếu không tính công lao động, mỗi con bò sữa cho lãi khoảng 20 triệu đồng/năm. Nhiều hộ nghèo chỉ với một con bò cho sữa nhưng với mức thu nhập như vậy đã thoát nghèo, có hộ còn tăng đàn lên vài con đến cả chục con, nên đời sống được cải thiện đáng kể. Đặc biệt phong trào nuôi bò sữa phát triển mạnh ở vùng đồng bào Khmer.
Anh Trần Sam Bô ở xã Viên An, huyện Trần Đề cho biết: Hiện tôi đang có con bò cho sữa, thu nhập một tháng khoảng 8 triệu đồng. Cũng đủ trang trải chi phí cho con ăn học, rồi trang trải chi phí trong gia đình. Từ chỗ thấy con bò này mang lại hiệu quả kinh tế cao, thời gian tới gia đình sẽ tiếp tục phát triển thêm đàn.
Thấy được hiệu quả của mô hình này, UBND tỉnh đã triển khai Dự án phát triển bò sữa giai đoạn 2013-2020, phấn đấu đến năm 2020 tăng đàn bò sữa lên khoảng 17.800 con, trong đó mỗi hộ nuôi từ 5 đến 6 con bò sữa trở lên. Ước tính dự án sẽ giải quyết việc làm cho hơn 6.000 lao động nông thôn. Tổng nguồn vốn thực hiện là 286,8 tỉ đồng, trong đó vốn trong dân trên 200 tỉ đồng. Các địa phương thực hiện dự án trên gồm các huyện Trần Đề, Mỹ Xuyên, Mỹ Tú, Châu Thành và vùng ven thành phố Sóc Trăng.
Tùy vào kinh phí địa phương, mỗi hộ nghèo và cận nghèo được hỗ trợ từ 4 đến 5 triệu đồng và vốn vay từ ngân hàng chính sách xã hội là 30 triệu đồng. Việc tăng đàn bò và lượng sữa tươi đạt cao không chỉ giúp người dân vươn lên thoát nghèo, tăng thu nhập, mà còn là điều kiện tốt để giảm dần việc phải nhập khẩu sữa.
Theo Cục Chăn nuôi, ngành sữa nước ta chủ yếu dựa vào việc nhập khẩu từ nước ngoài và là một trong 20 nước nhập khẩu sữa nhiều nhất thế giới với khoảng 1,2 triệu tấn sữa các loại một năm.
Có thể bạn quan tâm

Theo anh Trung thì trước đây, do diện tích lớn nên nhu cầu giống hoa cho mỗi vụ trồng rất nhiều, cứ mỗi lần vào vụ lại xuất hiện tình trạng khan hiếm giống. Gia đình phải tất bật liên hệ, tìm kiếm nguồn cung khắp nơi và mua giống với giá cao. Cũng vì thế nên giống hoa nhiều lúc không đảm bảo chất lượng, cây trồng kém phát triển, củ không nảy mầm tốt. Gia đình luôn rơi vào tình thế bị động trong việc tìm nguồn giống…

Ngày 26/11, Trạm Khuyến nông – Khuyến ngư huyện Đắk Song tổ chức hội thảo đầu bờ, đánh giá mô hình trình diễn sản xuất rau cải bẹ xanh an toàn tại hộ bà Trần Thị Thu ở thôn 8, xã Thuận Hà với quy mô 1.000 m2.

Những ngày này, người dân thôn Ngọc Kinh Đông (Đại Hồng, Đại Lộc) đứng ngồi không yên bởi hàng chục héc ta hoa màu ven sông có nguy cơ héo rũ. Nắng hè rát bỏng, nguồn nước khô kiệt đã khiến những cánh đồng bắp, đậu xanh, ớt, dưa… ven sông héo rũ, còi cọc vì thiếu nước. Thăm đồng khi đã xế chiều, ông Trần Ngọc Bích ngao ngán: “Hai sào ruộng đã bỏ hoang, nay tới cả 2 sào màu của gia đình cũng bị chết héo.

Khí hậu huyện Ia Grai được chia ra làm 2 vùng khá rõ rệt. Các xã phía Đông có độ cao trên 600 mét so với mực nước biển, phù hợp với cây cà phê. Vùng phía Tây thấp hơn, nhiệt độ nóng hơn, phù hợp với cây cao su và điều. Đến nay, sự phát triển mạnh mẽ của các loại cây công nghiệp đã góp phần rất lớn trong sự phát triển kinh tế-xã hội của huyện biên giới này.

Vì vậy, năng suất lao động không cao, chất lượng chè thấp, lượng tiêu thụ sản phẩm ra thị trường còn hạn chế. Chè của HTX sản xuất ra chủ yếu là chè khô, đóng bao bì không có nhãn hiệu hàng hóa, thương hiệu sản phẩm, nên chỉ bán được ở địa bàn trong huyện hoặc các mối lái quen biết.