Sóc Trăng Giới Thiệu Một Số Giống Cỏ Trong Chăn Nuôi Bò Sữa

Ở Sóc Trăng khi đàn bò sữa ngày càng tăng thì nhu cầu cỏ làm thức ăn bò cũng ngày càng lớn hơn. Trong khi đồng cỏ tự nhiên ngày càng thu hẹp. Chính vì vậy vấn đề trồng cỏ trong chăn nuôi bò sữa là một giải pháp rất quan trọng.
Hiện nay chăn nuôi gia súc nhai lại trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng phát triển rất nhanh, đặc biệt là đàn bò sữa chiếm khoảng 4.700 con, do đó nhu cầu thức ăn xanh cung cấp cho chăn nuôi là rất lớn. Đặc biệt khi dự án phát triển đàn bò sữa toàn tỉnh lên 17.000 con năm 2020 và sản lượng sữa đạt 23.000 tấn thì nhu cầu cỏ cho chăn nuôi càng bức thiết hơn.
Thực tế cho thấy sự thiếu hụt cỏ trong chăn nuôi thường diễn ra vào những tháng khô hạn, nên đòi hỏi phải có lượng thức ăn dự trữ và phải chọn giống cỏ có năng suất và chất lượng cao mới có thể đáp ứng nhu cầu chăn nuôi gia súc trong tỉnh. Hiện nay ở Sóc Trăng có trồng một số giống cỏ cho năng suất và chất lượng cao như cỏ VA06, cỏ Voi, cỏ Sả và cỏ Nhật, bên cạnh đó Ban quản lý Dự án bò sữa Sóc Trăng đang triển khai trồng thử nghiệm các giống cỏ mới có sản lượng như: cỏ Stylo, cỏ Mulato, cỏ Mombasa guinea và cỏ Ruzi. Nhìn chung các giống cỏ phát triển rất tốt thích hợp với điều kiện khí hậu ở Sóc Trăng
Việc trồng cỏ có năng suất - chất lượng cao được xem như giải pháp hữu hiệu, vừa tạo ra nguồn thức ăn cho gia súc, vừa bảo vệ tốt môi trường, tăng độ phì nhiêu cho đất. Trồng cỏ có năng suất không phải là hướng đầu tư ngày một ngày hai mà đây là hướng lâu dài trong việc phát triển chăn nuôi gia súc nhai lại. Kỹ sư Văn Đông Du – Chuyên viên kỹ thuật – Trung tâm giống vật nuôi Sóc Trăng giới thiệu cùng bà con về đặc điểm của một số giống cỏ được trồng phổ biến trên địa bàn tỉnh:
Cỏ VA06: Năng suất cỏ năm đầu có thể đạt 652 tấn/ ha/ năm và từ năm thứ 2 trở lên năng suất có thể đạt 1025 tấn/ha/năm, cây cao khoảng 1.3 – 1.7m là cắt được, có thể cắt 5-6 lứa/ năm. Dinh dưỡng ở giai đoạn 45 ngày hàm lượng đạm thô chiếm 7,6%, trong cỏ khô hàm lượng vật chất khô 23,5%. VA06 có thể trồng nhiều loại đất kể cả đất chua, đất hơi kiềm, chịu được mặn và khô hạn, đọng nước. đất dốc, đất bằng, bờ ruộng.
Cỏ Voi (Pennisetum purpureum): Năng suất cỏ tươi đạt 120-300 tấn/ha/năm, trồng thâm canh và thu cắt kịp thời năng suất gấp đôi, thậm chí có thể đạt 400 tấn/ha/năm. Dinh dưỡng ở giai đoạn cỏ 45 ngày tuổi hàm lượng đạm thô 7,25%, Vật chất khô 24,0%. Có thể trồng nhiều loại đất kể cả đất chua, đất hơi kiềm, chịu được mặn và khô hạn, đọng nước. đất dốc, đất bằng, bờ ruộng.
Cỏ Sả (Pannicum maximum): Năng suất đạt 280-300 tấn/ha/năm, mỗi năm có thể cắt 8-10 lứa. Dinh dưỡng ở giai đoạn 30 tuần tuổi đạm thô đạt 12,46%, Vật chất khô 21,00%. Cỏ Sả có thể trồng nhiều loại đất kể cả đất chua, đất hơi kiềm, chịu được mặn và khô hạn, đọng nước, đất bằng, bờ ruộng.
Cỏ có thể cho bò ăn ở dạng tươi và để tăng tính ngon miệng thì bà con nên băm cỏ thành những đoạn nhỏ mới cho bò ăn, Tuy nhiên ở thời điểm cỏ dư thừa thì có thể dự trữ cỏ lại bằng biện pháp ủ chua. Thức ăn ủ chua này là để tạo nguồn thức ăn có dinh dưỡng cao: giàu đạm, đường, sinh tố... dễ tiêu hóa và cung cấp nhiều men vi sinh hữu ích cho bò.
Để ủ 100 kg cỏ có tỉ lệ nước trong thân khoảng 70-80% ta cần có 1 kg muối, 4 kg rỉ mật đường, 0,5 kg urê. Tất cả trộn lẫn với nhau và tưới lên từng lớp cỏ như quy trình hướng dẫn. Ủ chua thức ăn cho phép người chăn nuôi khắc phục được tình trạng thiếu thức ăn, tạo nguồn thức ăn ổn định quanh năm. Khi ủ chua, thức ăn được bảo quản lâu dài, chất dinh dưỡng bị tổn thất ít, thức ăn lại có thêm những tính chất mới như mùi thơm, vị chua nhẹ xen lẫn vị ngọt, hấp dẫn vật nuôi ăn nhiều hơn.
Có thể bạn quan tâm

Ông Nguyễn Quang Vinh Bình, Chi cục trưởng Chi cục Quản lý Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản (NLTS) tỉnh Thừa Thiên Huế cho biết, nạn đánh bắt mang tính hủy diệt NLTS vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai diễn ra khá phức tạp. Trên 50 vụ vi phạm được phát hiện, xử lý từ đầu năm đến nay, tịch thu và tiêu hủy 250 cheo lừ xếp mắt lưới nhỏ, 50 bộ kích điện, xử phạt hành chính trên 140 triệu đồng là con số đáng báo động.

Diện tích chè của Hà Giang hiện có 20.305 ha, diện tích cho thu hoạch 16.932 ha, sản lượng chè búp tươi ước đạt trên 57.598 tấn. Ngành chè đã và đang mang lại đời sống, thu nhập cho hàng chục NGHÌN đồng bào. Tuy nhiên, khảo sát thực tiễn cho thấy đời sống của người làm chè hiện nay vẫn còn thấp, các mối liên kết còn bấp bênh. Rất cần một “cú hích” để ngành chè phát triển đúng với tiềm năng.

Tại hội nghị, tiến sỹ Phan Huy Thông, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia khẳng định: Nuôi trồng thủy sản nói chung, nuôi nhuyễn thể nói riêng đạt hiệu quả kinh tế cao phụ thuộc vào nguồn giống tốt và khoa học kỹ thuật tốt. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất hiện nay của các tỉnh phía Bắc trong nuôi nhuyễn thể là nguồn giống trong nước sản xuất ra chỉ đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu con giống của ngư dân, phần còn lại phải nhập giống chủ yếu từ Trung Quốc nên khó kiểm soát chất lượng con giống.

Hiện giá ca cao tươi bán tại vườn đạt hơn 5.000 đồng/kg, hạt khô có giá 56.000 đồng/kg, tăng khoảng 30% so với cùng kỳ năm ngoái. Theo Sở NNPTNT Đồng Nai, diện tích cây ca cao cho thu hoạch trong tỉnh hiện khoảng 1.000ha, năng suất bình quân khoảng 10 tấn hạt tươi/ha, tăng 20% so với cùng kỳ.

Mặc dù không phải là nghề chính, thế nhưng mùa ruốc biển (còn gọi là khuyết) năm nay, ngư dân các vùng bãi ngang Lệ Thủy (Quảng Bình) được cả mùa lẫn giá khiến cho nhiều người vô cùng phấn khởi. Khai thác ruốc biển đã mang lại khoản thu nhập không hề nhỏ cho những ngư dân nơi đây.