Sinh kế thoát nghèo của đồng bào Hrê ở Ba Liên

Hiệu quả của mô hình cộng đồng
Con đường dẫn vào hồ chứa nước Núi Ngang trải bê tông thẳng tắp.
Hai bên đường là những ngôi nhà kiểu mới khang trang, tường rào cổng ngõ kiên cố.
Cảnh sắc ấy cho thấy cuộc sống khó khăn của đồng bào Hrê nơi đây đã vơi dần.
Khai thác thủy sản nước ngọt ở hồ chứa nước Núi Ngang đã trở thành sinh kế thoát nghèo của đồng bào H're ở Ba Liên .
Trời về chiều, anh Đinh Văn Nga, ngụ thôn Núi Ngang lại tranh thủ mang lưới vào hồ thả để sáng mai thu cá bán.
Việc thả lưới là công việc thường nhật của anh Nga suốt 4 năm qua.
Trung bình một ngày anh có thể đánh được 20kg cá mè, cá trắm, thu về ba bốn trăm nghìn đồng.
Anh Nga cho biết: "Năm 2008, mình lấy vợ.
Hai vợ chồng cũng chăm chỉ làm thuê làm mướn mà vẫn không thoát được đói nghèo.
Nhưng từ ngày tham gia khai thác thủy sản trên hồ Núi Ngang, thì kinh tế gia đình khấm khá hẳn.
Một năm cũng thu được năm sáu chục triệu đồng.
Đến năm 2013, gia đình đã thoát nghèo và mới đây đã xây được nhà ngói, mua sắm được nhiều đồ dùng thiết yếu trong nhà".
Không đấu giá, cũng chẳng phải bỏ tiền ra thuê hồ để được nuôi trồng, khai thác thủy sản tại hồ Núi Ngang, hễ người dân nào muốn tham gia, cũng được chính quyền xã và những hộ dân có kinh nghiệm trước đó nhiệt tình tạo điều kiện giúp đỡ.
Vì vậy, với việc ban đầu chỉ có khoảng 15 hộ chọn cách mưu sinh nơi lòng hồ, thì đến nay con số ấy đã gần 50 hộ.
Ông Nguyễn Văn An - Phó Chủ tịch xã Ba Liên cho biết: “Ở đây ai cũng công bằng như nhau, đều được tạo điều kiện khai thác cá ở hồ Núi Ngang.
Hộ nào muốn tham gia thì đầu năm chỉ cần đóng cho xã 1,2 triệu đồng để mua cá giống thả xuống, đến tháng 6 là bắt đầu thu hoạch.
Trung bình mỗi hộ cũng thu tầm 6 - 7 triệu đồng/tháng từ tiền bán cá.
Giờ đây niềm phấn khởi đã lan tỏa, bởi nhà nào cũng đủ ăn, đủ mặc”.
Dù là mô hình cộng đồng nhưng vì thấy được hiệu quả của nó, gần 50 hộ dân tham gia luôn có ý thức giữ gìn nguồn lợi thủy sản để bảo vệ sinh kế lâu dài.
“Cá nặng tầm 2kg trở lên mới bắt, còn nhỏ hơn là thả xuống lại.
Ở đây tuyệt đối không khai thác cá bằng các dụng cụ như xung điện, lồng rọ.
Được tập huấn khuyến nông mấy lần rồi nên mình hiểu rõ lắm”, anh Phạm Văn Nua, ngụ thôn Hương Chiên cho hay.
Triển vọng từ mô hình nuôi cá lồng bè
Tìm hiểu mô hình nuôi cá điêu hồng trong lồng bè ở một số địa phương thấy có hiệu quả, năm 2014, hai hộ dân ở xã Ba Liên đã tự đầu tư nuôi ba lồng bè trên hồ Núi Ngang.
Là người trực tiếp quản lý và theo dõi mô hình nuôi cá điêu hồng này, ông Nguyễn Văn An - Phó Chủ tịch xã Ba Liên, đánh giá mô hình có tính hiệu quả tương đối cao.
Cá điêu hồng chỉ cần nuôi trong vòng 5 - 6 tháng là cho thu hoạch.
Cá khi đó đạt trọng lượng trung bình khoảng 1kg.
Giá thương lái thu mua là 35.000 đồng/kg.
Tuy nhiên, vì người nuôi chưa nắm bắt được kỹ thuật nuôi cũng như việc lựa chọn con giống, khiến cho sản lượng cá bị sụt giảm, nên lứa đầu tiên lợi nhuận vẫn chưa cao.
Trạm Khuyến nông huyện Ba Tơ sau khi tham quan mô hình nuôi cá điêu hồng lồng bè tại xã Ba Liên đã tìm hiểu và thống nhất hỗ trợ giống cá chất lượng, thức ăn, cùng với việc hướng dẫn kỹ thuật nuôi cho hai hộ dân này từ nguồn vốn Chương trình 30a.
Ông Nguyễn Thanh Hiệp - Trạm trưởng Trạm Khuyến nông huyện Ba Tơ cho biết: “Trong tháng 12 này, Trạm sẽ hướng dẫn người dân nuôi thử nghiệm 7.500 con cá giống.
Hiện tại, thị trường tiêu thụ cá diêu hồng ngày càng rộng rãi.
Cá điêu hồng đã có mặt trong các siêu thị và được người tiêu dùng ưa chuộng.
Tôi tin mô hình này sẽ thành công và mở ra thêm một hướng đi mới để người dân nơi đây phát triển kinh tế”.
Có thể bạn quan tâm

Lươn đồng (có tên khoa học là Monopterus albus) là loài thủy sản đang được nhiều hộ nông dân ở thị xã Tân Châu (An Giang) thả nuôi trong các bể xi măng và bể lót bạt nilong.Theo số liệu điều tra ở cuối năm 2014, toàn thị xã có 872 hộ nuôi lươn với tổng diện tích thả nuôi là 41.110 m2, trong đó tập trung nhiều ở xã Tân An với 377 hộ nuôi và chiếm 57,95 % diện tích nuôi lươn của toàn thị xã.

Thủy sản trở thành ngành hàng quan trọng trong việc mang về ngoại tệ cho đất nước với gần 8 tỷ USD năm 2014, trong đó riêng con tôm nước lợ đã chiếm 50% tổng kim ngạch với 4 tỷ USD giá trị xuất khẩu, kế đến là cá tra, dù chưa hết khó khăn nhưng vẫn giữ vị trí số 2 với 1,8 tỷ USD. Hai mặt hàng này vẫn là thế mạnh của thủy sản Việt.

Năm 2014, huyện Trần Văn Thời có gần 200 ha ao, đầm nuôi cá bổi, ước tổng sản lượng hơn 4.000 tấn. Mặc dù thời gian gần đây diện tích nuôi cá bổi thương phẩm ở huyện Trần Văn Thời ngày một tăng lên, nhưng do năm nay giá cá bổi giảm mạnh nên người dân có lãi rất thấp.

Theo ngư dân Nguyễn Văn Út, ở phường Thắng Tam (TP. Vũng Tàu), nghề rập ghẹ, ốc đã có ở đất Vũng Tàu từ những năm 90 của thế kỷ trước, là nghề truyền thống của những ngư dân gốc Bình Định, Quảng Ngãi di cư vào Nam. Ở BR-VT, ngư dân hành nghề rập ghẹ, ốc tập trung chủ yếu ở khu vực Xóm Lưới (TP. Vũng Tàu), thị rấn Phước Hải (huyện Đất Đỏ), Trước đây chỉ có vài chục chiếc, nay đã phát triển mạnh với hàng trăm chiếc tàu, ghe đánh bắt ghẹ, ốc bằng rập.

Vụ ấy, sau khi trừ chi phí ông Toàn còn lãi hơn 20 triệu đồng. Thành công bước đầu ấy là tiền đề để ông mạnh dạn thả tôm càng xanh vào những vụ tiếp theo với diện tích và số con giống gấp đôi. Như vụ 2014, ông thả 6.000 tôm càng xanh giống trên đồng lúa 2ha vừa lời gần 40 triệu đồng.