Sản Xuất Trái Cây Theo Tín Hiệu Thị Trường

Mùa rộ trái cây ĐBSCL thường “đụng hàng” mùa thu hoạch tập trung ở miền Đông, Tây Nguyên và miền Bắc, nên lượng cung ra thị trường khá lớn gây khủng hoảng thừa, rớt giá. Do vậy, việc điều chỉnh mùa vụ, sản lượng trái cây đáp ứng nhu cầu thị trường là vấn đề rất cần thiết.
Chất lượng cây giống với tiến bộ khoa học công nghệ góp phần quan trọng vào tăng trưởng năng suất, sản lượng trái cây.
Nếu vạch một “tour” trái cây quanh ĐBSCL từ Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp qua Vĩnh Long, TP Cần Thơ, Hậu Giang… thì chắc chắn du khách sẽ có một chuyến khám phá đặc sản đồng bằng rất thú vị. Tuy nhiên, dù mỗi địa phương đều có đặc sản riêng có, nhưng chỉ cần ghé 1 tỉnh bất kỳ đã có thể “ăn” được tất cả các loại trái cây.
Mùa trái cây “đụng hàng”
Theo Tiến sĩ Lương Ngọc Trung Lập- Viện Cây ăn quả Miền Nam, phần lớn các loại trái cây có sản lượng lớn ở ĐBSCL đều thu hoạch tập trung từ tháng 4- 7 hàng năm. Chủng loại cây ăn trái khá phong phú, hiện có hơn 30 chủng loại khác nhau.
ĐBSCL sở hữu nhiều giống cây ăn trái ngon đặc sản vùng miền như: xoài cát Hòa Lộc, bưởi da xanh, bưởi Năm Roi, thanh long, sầu riêng Ri6, nhãn xuồng cơm vàng, chôm chôm nhãn, sa pô Lồng mức, quýt đường, cam sành, vú sữa Lò Rèn, sơ ri, quýt hồng,…
Theo Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp- PTNT), diện tích cây ăn trái của ĐBSCL hiện khoảng 295.000ha, chiếm 36,5% diện tích cả nước với sản lượng 3,8 triệu tấn, chiếm gần 50% sản lượng cả nước.
Tuy nhiên, hiện có đến 82- 83% sản lượng trái cây của nhà vườn bán thông qua thương lái, 10% tiêu thụ qua hệ thống siêu thị và chỉ 7- 8% doanh nghiệp kinh doanh, chế biến, xuất khẩu mua.
Trong khi đó, mùa thu hoạch tập trung trái cây ĐBSCL lại rơi vào mùa chính của các loại trái cây xoài, sầu riêng, chôm chôm, bưởi, mãng cầu ta… ở miền Đông; bơ, hồng, dâu tây… ở Tây Nguyên và vải, đào… ở miền Bắc.
Ngoài ra, một lượng lớn trái cây cũng được nhập khẩu như táo (bôm), lê, quýt, nho Trung Quốc; cam, nho từ Mỹ; bòn bon, măng cụt, me từ Thái Lan.
Do đó, Tiến sĩ Lương Ngọc Trung Lập cho rằng, sản lượng cung ứng cho thị trường giai đoạn này quá lớn, cung vượt cầu, thường xảy ra ứ đọng, giá cả giảm mạnh (như chôm chôm, sầu riêng, thanh long, nhãn, dứa, chanh, cam sành…) ảnh hưởng đến nguồn thu nhập của nhà vườn.
Sản phẩm trái cây hầu hết được tiêu thụ dưới dạng tươi và ở thị trường nội địa (chiếm 90% tổng sản lượng), công nghệ sau thu hoạch và công nghiệp chế biến trái cây (ví dụ tồn trữ bằng kho lạnh, đa dạng sản phẩm chế biến) còn hạn chế, chưa giải quyết được sản lượng trái cây dư thừa khi vào mùa thu hoạch rộ như hiện nay.
Bên cạnh, “quy mô sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, thiếu diện tích chuyên canh quy mô lớn, thiếu liên kết… cũng là những nguyên nhân khiến sản xuất, tiêu thụ trái cây thiếu ổn định và ẩn chứa nhiều rủi ro”- Cục Trồng trọt nhận định.
Do vậy, vấn đề liên kết rải vụ thu hoạch, điều chỉnh sản lượng là một trong những giải pháp được đặt ra.
Điều chỉnh theo “tín hiệu” thị trường
Nhận định của Viện Cây ăn quả Miền Nam, sản xuất cây ăn trái ở ĐBSCL vẫn còn mang tính tự phát, chưa theo quy hoạch, nhất là chưa phát triển theo định hướng và “tín hiệu” của thị trường. Chẳng hạn “tín hiệu” giá chôm chôm trên thị trường Mỹ có sự chênh lệch rất lớn giữa chính vụ và nghịch vụ (gần 2,5 lần).
Chôm chôm có mức giá thấp nhất (6,5- 9,5 USD/kg) từ tháng 7- 9, giá trung bình (8,0- 12,5 USD/kg) từ tháng 10- 12 và đạt cao nhất (13,5- 15,5 USD/kg) từ tháng 1- 6.
Nguồn cung cấp chôm chôm cho thị trường này là từ khu vực Châu Mỹ với lợi thế chi phí, vận chuyển và chất lượng, vào thời gian từ tháng 6- 12 hàng năm. Như vậy, các tháng từ 1- 5 nguồn cung cấp chôm chôm thị trường Mỹ giảm và đây là cơ hội cho trái chôm chôm đẩy mạnh xuất khẩu.
Sự phong phú và đa dạng của trái cây đồng bằng chưa tỷ lệ thuận với giá cả và lợi nhuận cho nhà vườn.
Phân tích của Tiến sĩ Trung Lập cho thấy, giá bán trái cây tại vườn có sự chênh lệch lớn giữa chính vụ và nghịch vụ.
Cụ thể, giá chôm chôm Java nghịch vụ tăng gấp 2,12 lần so chính vụ, cam sành gấp 1,80 lần, thanh long 1,94 lần, bưởi Năm Roi gấp 1,76 lần, nhãn tiêu da bò gấp 1,72 lần và xoài cát Hòa Lộc gấp 1,65 lần.
Kinh nghiệm lâu năm, sự năng động sáng tạo của nhà vườn và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật… nên nhà vườn ĐBSCL có thể xử lý, điều chỉnh mùa vụ “theo ý muốn… dễ như trở bàn tay”. Hiện một số trái cây đã thu hoạch quanh năm như: xoài, nhãn, chôm chôm, sầu riêng, thanh long, dứa, cam sành, chanh, dưa hấu,…
Đặc biệt, nhãn, xoài, chanh, dứa, dưa hấu,… ở ĐBSCL gần như đã chuyển hẳn từ vụ thu hoạch truyền thống sang nghịch vụ. Đây là một trong những lợi thế đặc biệt vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, lợi thế này vẫn chưa được khai thác, quản lý một cách căn cơ và hiệu quả.
Chính vì thế, việc nghiên cứu nắm rõ thị trường từ chủng loại, số lượng, thời gian cung ứng… giúp điều tiết tốt trong sản xuất sẽ là điểm mạnh cho sản xuất bền vững trong tương lai.
Liên kết trong quy hoạch và phân bố thời vụ quy hoạch trái cây, không chỉ riêng địa phương mà cần đặt trong mối tương quan chung cho cả vùng, liên vùng, nhằm tránh đụng hàng, rớt giá. Việc cung ứng lệch hay nghịch vụ đảm bảo sản lượng cung ứng hàng hóa được ổn định, liên tục, giá bán cao.
Hơn nữa, Tiến sĩ Lương Ngọc Trung Lập cho rằng, cần xác định thị trường xuất khẩu mục tiêu cụ thể cho từng chủng loại trái cây để có sự điều chỉnh mùa vụ và sản lượng cung ứng của từng chủng loại trái cây thích hợp.
Theo Cục Trồng trọt, vài năm gần đây tốc độ phát triển diện tích cây ăn trái ĐBSCL chậm (chỉ hơn 1%/năm), nhưng nhờ ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi giống cây trồng, sản xuất chuyên canh và trình độ canh tác của nhà vườn nâng cao… nên năng suất và sản lượng tăng trưởng mạnh (3- 4%/năm).
Có thể bạn quan tâm

Hiệp hội Điều Việt Nam cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, lượng hạt điều xuất khẩu của Việt Nam đạt 130.000 tấn, trị giá gần 830 triệu USD, dự báo xuất khẩu hạt điều và các mặt hàng dầu vỏ hạt điều cùng sản phẩm chế biến sâu trong năm nay sẽ đạt từ 2 - 2,2 tỷ USD. Hiện Việt Nam có khoảng 300 DN xuất khẩu sản phẩm hạt điều đến 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới.

Nuôi lươn trong bồn không chiếm nhiều diện tích. Có thể tận dụng trước nhà, sau vườn hay dưới sàn nhà làm bồn nuôi lươn. Chi phí nuôi lươn trong bồn rất thấp. Xã Tân An, thị xã Tân Châu phát triển mạnh mô hình nuôi này với hàng trăm hộ tham gia nuôi, hộ nuôi nhiều nhất từ 6 - 10 bồn, ít nhất cũng 1 - 2 bồn.

Mặc dù, giá chanh năm nay thấp hơn năm trước nhưng người trồng chanh vẫn có lãi cao nhờ áp dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất nên năng suất luôn ổn định và cho trái quanh năm. Theo ông Nông, mỗi tháng gia đình ông thu lãi 10 triệu đ/0,5 ha.

Đối với quả vải, Bộ đang đàm phán với Nhật Bản, bởi một loại quả của Việt Nam muốn vào được thị trường của một nước phát triển phải qua rất nhiều công đoạn, phải được họ chấp nhận.

Sau hơn 4 năm áp dụng đệm lót sinh học (ĐLSH) vào chăn nuôi, bước đầu nhận thấy mô hình đem lại hiệu quả trong việc giúp nông dân giảm thiểu ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, chi phí thức ăn, công chăm sóc, giúp vật nuôi tăng trọng nhanh... Tuy nhiên, việc nhân rộng mô hình này vẫn còn gặp nhiều khó khăn.