Sản xuất chè an toàn đòi hỏi cấp thiết

Hội nghị có sự tham dự của lãnh đạo một số cục, vụ, viện của Bộ NN-PTNT; đại diện 31 tỉnh, thành sản xuất chè, các doanh nghiệp, HTX trồng chè. Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát chủ trì hội nghị.
Báo động
Phát biểu khai mạc hội nghị, Bộ trưởng Cao Đức Phát cho biết, Việt Nam đứng thứ 5 trên thế giới về sản lượng xuất khẩu chè nhưng chỉ đạt 3,5 - 4 điểm trên thang điểm 10 của thế giới về chất lượng chè xuất khẩu.
Trong thời gian qua, Bộ NN-PTNT, các đơn vị trực thuộc Bộ, các địa phương đã nỗ lực để cải thiện tình hình song việc đảm bảo an toàn VSTP đối với sản phẩm chè vẫn chưa được cải thiện nhiều.
Vì vậy, khẩn trương chấn chỉnh, tổ chức lại sản xuất chè theo hướng an toàn là đòi hỏi cấp thiết để tạo uy tín, nâng cao giá trị, thu nhập cho người làm chè.
Kết quả điều tra của Cục BVTV năm 2012 cho thấy, diện tích sản xuất chè theo hướng an toàn chỉ chiếm 3% tổng diện tích chè toàn quốc. Các hộ nông dân sản xuất chè sử dụng tới 81 loại thuốc thuộc 53 hoạt chất để phun trừ sâu bệnh trên chè.
Trong đó, có 37 hoạt chất không nằm trong danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng (chiếm 69%). Thực tế sử dụng thuốc BVTV, có 49% nông dân phun nồng độ cao hơn hướng dẫn; 64% phun hỗn hợp 2 loại thuốc và 14% phun hỗn hợp 3 loại thuốc. Gần 50% nông dân phun trên 7 lần/vụ, có nhiều hộ phun tới 4 lần/tháng.
Trong khi đó, số lượng cán bộ được biên chế làm công tác thanh tra, kiểm tra thuốc BVTV rất hạn chế. Trung bình mỗi cán bộ phải quản lý trên 70 cửa hàng.
Từ thực tế trên, PGS.TS Nguyễn Xuân Hồng, Cục trưởng Cục BVTV, cho rằng, các loại sâu bệnh trên chè không phải là khó phòng trừ. Người làm chè chỉ cần sử dụng thuốc BVTV khi nào thật cần thiết và phải sử dụng với nguyên tắc "4 đúng".
Vì vậy, việc sử dụng thuốc BVTV đáp ứng yêu cầu đảm bảo ATTP trên sản phẩm chè không phải là vấn đề kỹ thuật mà là việc tổ chức lại sản xuất. Người làm chè là thành viên của doanh nghiệp, HTX, các tổ chức thì mới có thể giám sát cộng đồng và đồng loạt thực hiện đảm bảo ATTP được.
Theo số liệu của Cục Trồng trọt, có các tổ chức chứng nhận VietGAP đã cấp giấy cho 197 cơ sở sản xuất chè với diện tích 9.300 ha.
Tuy nhiên, việc tổ chức sản xuất chè an toàn vẫn chưa gắn giữa chế biến với sản xuất nguyên liệu, nhiều cơ sở không có vùng nguyên liệu; giá cả thu mua không hợp lý nên không khuyến khích người sản xuất coi trọng chất lượng nguyên liệu.
Cùng với đó, kỹ thuật sản xuất, tổ chức sản xuất chè an toàn chưa có nguồn kinh phí riêng để thực hiện. Lãnh đạo Cục Trồng trọt đã đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất chè an toàn trong thời gian tới như quy hoạch sản xuất chế biến chè phải gắn với quy hoạch vùng sản xuất chè an toàn; đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, quản lý Nhà nước về sản xuất và chế biến…
Ông Hoàng Văn Dũng, Phó GĐ Sở NN-PTNT Thái Nguyên cho biết, sản xuất, chế biến sản phẩm chè tại Thái Nguyên đang theo hướng tích cực: Tăng về diện tích, năng suất, sản lượng trong khi đó chất lượng và giá trị cũng ngày càng tăng cao.
Rõ ràng giải pháp tập trung phát triển vùng nguyên liệu chè búp tươi chất lượng cao theo hướng cung cấp nguyên liệu chè xanh chất lượng đang phát huy hiệu quả và sẽ là giải pháp kinh tế kỹ thuật mang tính cốt lõi trong sản xuất chè an toàn.
Phát triển chè an toàn đang là đòi hỏi tất yếu và cấp thiết
Báo cáo của Sở NN-PTNT Lâm Đồng - vựa chè của cả nước nhận định, việc xây dựng những cánh đồng chè mẫu lớn sẽ là giải pháp tốt nhằm kiểm soát tốt chất lượng nguyên liệu từ sản xuất, sơ chế, chế biến đến tiêu thụ. Qua đó, đảm bảo tính tự giác của mối quan hệ tam giác giữa người sản xuất, người phân phối và người tiêu dùng.
Tổ chức lại sản xuất
Phát biểu kết luận hội nghị, Bộ trưởng Cao Đức Phát cho rằng, các cơ quan, đơn vị, các tổ chức và người làm chè đã đưa ra nhiều giải pháp để chấn chỉnh và cải thiện tình hình đảm bảo ATTP trên sản phẩm chè. Mỗi ngành, mỗi địa phương đều có cách làm đặc trưng.
Tuy nhiên, giải pháp quan trọng nhất phải tập trung chỉ đạo, gấp rút thực hiện là hướng dẫn và hỗ trợ nhân dân tổ chức lại sản xuất. Cụ thể là hình thành các tổ hợp tác, HTX hoặc liên doanh, liên kết, phối hợp với các doanh nghiệp, các tổ chức… Mặt khác, tất cả những hình thức tổ chức sản xuất trên đều phải vận hành kỹ thuật sản xuất theo quy trình thực hành nông nghiệp tốt, VietGAP, GlobalGAP, UTZ, ISO…
Nhằm đảm bảo cho giải pháp trên thực thi, Bộ trưởng yêu cầu các cơ quan trực thuộc Bộ và các địa phương phải nghiên cứu để sớm đưa ra được hệ thống chính sách mạnh mẽ, đủ sức nặng.
Theo Bộ trưởng, giải pháp nói trên đi kèm với hệ thống cơ chế chính sách cần triển khai càng nhanh càng tốt, nhằm khẩn trương nâng cao chất lượng, giá trị của sản phẩm chè cũng như thu nhập cho người làm chè.
Có thể bạn quan tâm

Thời điểm này, na Lục Nam (Bắc Giang) đang thu hoạch rộ. Tuy thời tiết không thuận lợi như một số năm trước song nhờ chú trọng áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, năm nay na lại được mùa.
Theo thống kê, tổng đàn gà công nghiệp của cả nước khoảng 14,4 triệu con, được chăn nuôi tập trung tại 5.000 trang trại. Hiện, người nuôi đang lỗ 10.000 đồng/con gà. Như vậy, trong 11 tháng qua, người nuôi gà cả nước thiệt hại trên 1.300 tỉ đồng.

Đầu năm 2010, ông Lê Dũng ở phường 8, ông Nguyễn Việt Hùng ở xã Lý Văn Lâm, TP Cà Mau “thử sức” nuôi heo rừng. Động cơ khiến 2 ông thử sức nuôi heo rừng rất đơn giản: heo rừng là “của hiếm”, giá trị kinh tế cao. Và trong quá trình nuôi, 2 ông trải qua không ít chuyện cười đau cả bụng và chảy cả nước mắt.

Trước đây, gia đình anh Nguyễn Xuân Cảnh (thôn 7, thị trấn Ea Knốp, huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk) chủ yếu nuôi heo, bò song việc chăn nuôi khá vất vả, công sức bỏ ra nhiều mà thu nhập lại không đáng kể.

Suốt 11 tháng qua, các doanh nghiệp và người chăn nuôi gà công nghiệp trong nước đều đang bán dưới giá thành. Ước tính với số lỗ khoảng 10 nghìn đồng/con gà như hiện nay, trong 11 tháng qua, ngành chăn nuôi đã lỗ gần 1.376 tỷ đồng.