Rươi, Cáy Đông Triều (Quảng Ninh)

Lâu nay nói tới Đông Triều (Quảng Ninh) người ta nghĩ ngay tới vùng lúa lớn nhất của Quảng Ninh. Cũng trên diện tích cấy lúa ấy, ven sông không ít hộ đã sử dụng để khai thác rươi và cáy có hiệu quả cao gấp nhiều lần. Việc xây dựng vùng nuôi rươi và cáy đang là hướng mở cho phát triển kinh tế cao ở Đông Triều.
Rươi và cáy là 2 loại sản vật mà thiên nhiên có ở những bãi bồi nằm ở ven sông dưới tác động của thuỷ triều lên xuống. Rươi và cáy không mất kinh phí đầu tư, việc khai thác rất đơn giản nhưng giá trị kinh tế của nó thì vô cùng lớn.
Hiện nay, giá rươi trên thị trường dao động khoảng từ 400 - 500 nghìn đồng/kg. Số lượng không đủ để cung cấp ra thị trường, trong khi cáy thời gian khai thác đều liên tục.
Theo thống kê, hiện nay diện tích khai thác rươi và cáy của huyện Đông Triều khoảng 40ha, tập trung chủ yếu ở hai xã Xuân Sơn và Hưng Đạo. Riêng xã Xuân Sơn diện tích nuôi rươi và cáy hiện nay có 27 ha, nằm ở 3 thôn với 69 hộ khai thác, sản lượng rươi hàng năm khoảng 10 tấn, còn số lượng cáy thì lên tới vài chục tấn.
Còn ở xã Hưng Đạo diện tích nuôi rươi và cáy có khoảng 10 ha tập trung ở 2 thôn Mỹ Cụ 1 và Vân Quế với khoảng 50 hộ trực tiếp khai thác. Chị Nguyễn Thị Chúc ở thôn 2, xã Xuân Sơn, một trong những hộ tiêu biểu cho mô hình phát triển trang trại khai thác kinh doanh sản vật rươi cáy của Đông Triều.
Chị Chúc chia sẻ: Năm 2006 vợ chồng tôi xin địa phương dồn điền đổi thửa diện tích 5 ha để phát triển kinh tế. Khi ra tới đây cỏ lau sậy mọc um tùm cao hơn đầu người, vợ chồng tôi đầu tư thuê nhân công lao động, cải tạo bờ chia ô nhỏ để cấy lúa. Lúc đó, rươi và cáy ở nơi đây rất ít, vào mùa chỉ thu hoạch được vài ba cân không đáng kể.
Nhưng sau khi cải tạo đất thì sản lượng cáy và rươi nhiều hơn nên vợ chồng tôi đã tăng cường cải tạo đất, sử dụng phân bón hữu cơ để làm xốp đất và hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Đến nay, mỗi năm nhà tôi thu hoạch được khoảng 1 tấn rươi và 10 tấn cáy.
Được biết, không những khai thác rươi, cáy bán ra thị trường mà gia đình chị Chúc còn mở nhà hàng đặc sản rươi, cáy và đăng ký nhãn hiệu mắm cáy sông Cầm. Mỗi năm gia đình chị có thu nhập 600 triệu đồng từ khai thác rươi, cáy.
Đến thăm gia đình chị Nguyễn Thị Biên ở thôn Xuân Cầm, xã Xuân Sơn, cũng là một trong những hộ có kinh nghiệm nhiều năm làm rươi và cáy, thấy gia đình chị đang tất bật đắp bờ đón mùa rươi về. Quệt mồ hôi ngang trán, chị Biên vui vẻ nói: Muốn khai thác được nhiều rươi và cáy thì vẫn phải duy trì trồng lúa, tiến hành cải tạo đất hàng năm bằng phân bón hữu cơ và đầu tư hệ thống cống thoát nước.
Trước đây nhiều hộ ở xã chủ yếu trồng lúa thì nay ngoài việc trồng lúa, họ còn khai thác rươi để nâng cao thu nhập cho gia đình.
Nhằm phát triển sản vật rươi và cáy của địa phương, xã Xuân Sơn đã xây dựng vùng quy hoạch 27 ha nằm trong vùng khai thác và bảo vệ nguồn lợi rươi, cáy này. Đồng thời, xã cũng thành lập các tổ hợp, HTX sản xuất rươi, cáy ở các thôn.
Việc tham gia các tổ hợp, HTX sẽ giúp các hộ gia đình thuận lợi hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng để đầu tư mở rộng và phát triển nguồn lợi rươi, cáy và xây dựng thương hiệu rươi, cáy Xuân Sơn thành sản phẩm mang thương hiệu của địa phương. Trao đổi với chúng tôi, đồng chí Lê Văn Lương, Phó Chủ tịch UBND xã Hưng Đạo, cho biết: Rươi, cáy có diện tích khai thác này nằm xen canh với đất canh tác và khu vực nuôi trồng thuỷ sản.
Vừa qua xã cũng đăng ký rươi, cáy vào mỗi xã, phường một sản phẩm, và đang làm đề án quy hoạch vùng nuôi để phát triển sản vật này. Tuy nhiên, hiện nay trên thượng nguồn nước bề mặt ở các mỏ đổ về, nước thải nhà máy nhiệt điện và tình trạng khai thác cát đang dần phá vỡ hệ thống sinh thái gián đã ảnh hưởng tới sản vật rươi cáy này.
Được biết, hiện tại huyện chưa đánh giá mức độ ảnh hưởng môi trường đối với rươi và cáy, nhưng huyện Đông Triều đã giao Phòng NN&PTNN đang đi rà soát đánh giá mức độ tăng giảm và ô nhiễm vùng nuôi trồng thuỷ sản toàn huyện, đặc biệt là dòng thuỷ sinh, để có biện pháp quy hoạch bảo vệ.
Làm tốt được vấn đề này sẽ tận dụng, phát huy nguồn lợi rươi, cáy và góp phần quan trọng trong việc xây dựng thương hiệu sản phẩm đặc trưng của Đông Triều.
Có thể bạn quan tâm

Đã hết 7 tháng của năm 2013 nhưng ngành cá tra vẫn chưa có dấu hiệu khởi sắc trở lại khi xuất khẩu giảm, người chăn nuôi lỗ. Thực trạng này đòi hỏi nhà nước phải có chính sách và quy hoạch phù hợp.

Với ưu điểm “4 không”: không mùi hôi, không khí độc, không cần dọn chất thải và không phải tắm cho đàn lợn trong quá trình nuôi; phương pháp chăn nuôi lợn trên nền đệm lót sinh học trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang đã mở ra hướng chăn nuôi mới theo hướng phát triển bền vững.

Sáng 26-7, Sở Khoa học – Công nghệ Bà Rịa - Vũng Tàu đã tổ chức hội đồng nghiệm thu đề tài “Ứng dụng công nghệ sinh thái trong quản lý rầy nâu và bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá trên lúa tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”, do kỹ sư Trần Thị Hiến, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật thực hiện.

Anh Lê Đình Bắc quê ở Bình Dương, từng là công nhân cao su có thâm niên gần 20 năm. Với mong muốn phát triển kinh tế độc lập, nhưng do thiếu vốn, đất đai ở quê nhà lại đắt đỏ, nên cách đây 7 năm, anh quyết định lên Dak Lak và chọn vùng đất triền đồi thôn 1, xã Hòa Phong (huyện Krông Bông) để định cư và thực hiện ý tưởng của mình.

Năm 2011, anh Huỳnh Văn Thành, 59 tuổi đầu tư hơn 1 tỉ đồng xây dựng trang trại tại xã Phước Thắng (huyện Bác Ái) nuôi heo siêu nạc. Anh Thành chăn nuôi theo phương thức: Công ty CP đầu tư con giống, thức ăn, thuốc phòng bệnh và bao tiêu sản phẩm, anh đầu tư nhân công chăm sóc và xây dựng chuồng trại nuôi 1.100 con heo siêu nạc. Trang trại xây dựng tiên tiến bao gồm kho dự trữ thức ăn, khu vực để thuốc thú y, dụng cụ khám, chữa bệnh và hệ thống nước uống tự động. Nhờ chăm sóc và phòng bệnh chu đáo nên đàn heo của anh Thành phát triển tốt, mỗi năm nuôi 2 lứa, mỗi lứa xuất bán trên 110 tấn heo thịt, sau khi trừ chi phí anh còn lãi khoảng 200 triệu đồng/lứa.