Rau an toàn chưa có chỗ đứng

VietGAP nghĩa là Thực hành sản xuất nông nghiệp tốt ở Việt Nam dựa trên 4 tiêu chí: Kỹ thuật sản xuất; an toàn thực phẩm (gồm các biện pháp đảm bảo không có hóa chất nhiễm khuẩn hoặc ô nhiễm vật lý khi thu hoạch); môi trường làm việc (nhằm ngăn chặn lạm dụng sức lao động của nông dân) và truy tìm nguồn gốc sản phẩm (để xác định những vấn đề từ khâu sản xuất đến tiêu thụ). Do đó, sản phẩm rau đạt tiêu chuẩn VietGAP đảm bảo an toàn về dịch bệnh, môi trường và xã hội, vì được ngành chuyên môn kiểm soát nghiêm ngặt từ khâu sản xuất, thu hoạch đến đóng gói, vận chuyển tiêu thụ thông qua mã vạch, bao bì.
Vùng sản xuất: Nơi thừa, chỗ thiếu
“Thuộc vùng sản xuất rau an toàn nhưng ngoài tấm biển đề ngày xuống giống, ngày thu hoạch thì cũng chưa có gì khác. Chúng tôi vẫn phải tự trồng tự bán như lâu nay thôi”, vừa hái rau xà lách, vợ ông Lê Công Tránh ở xã Nghĩa Dũng (TP. Quảng Ngãi) vừa góp chuyện. “Nghĩa là việc sản xuất rau không được Hợp tác xã sản xuất kinh doanh và dịch vụ rau sạch Sông Trà (HTX) kiểm tra”, tôi hỏi. “HTX cũng tổ chức tập huấn trồng rau an toàn nhưng họ không thu mua sản phẩm thì kiểm tra làm gì”, hộ này bộc bạch.
Không riêng hộ ông Lê Công Tránh mà qua tìm hiểu, rất nhiều nông dân có diện tích nằm trong vùng sản xuất rau an toàn của HTX rơi vào tình cảnh trên. Đây cũng là lý do khiến họ “xé” quy trình, không mặn mà với việc sản xuất rau an toàn. Bởi nói như vợ ông Tránh thì: “Sản xuất rau an toàn tốn kém, nhọc công mà phải bán chợ thì lấy gì chúng tôi sống”.
Xảy ra tình trạng trên, theo Giám đốc HTX Nguyễn Thị Anh Thư: “HTX chưa tìm được đầu ra nên dù diện tích được chứng nhận sản xuất rau đạt tiêu chuẩn VietGAP là hơn 10ha, nhưng thực tế, chúng tôi chỉ kiểm soát được 2ha. Số còn lại vẫn phải để nông dân tự bán”. Điều này theo Phó Chi cục trưởng Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm thủy sản tỉnh (Chi cục) Nguyễn Đức Bình là “không đúng theo tinh thần, mục tiêu của VietGAP. Vì sau khi được công nhận VietGAP, HTX phải có trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát quy trình sản xuất trên toàn bộ diện tích ấy, chứ không có kiểu chia nhỏ như thế”.
Trong khi HTX rộng diện tích nhưng hẹp đầu ra, thì Công ty Qnasafe – đơn vị đầu tiên hợp tác với nông dân sản xuất rau theo tiêu chuẩn VietGAP trên địa bàn tỉnh lại lao đao vì thiếu đất sản xuất. Lý do, ngoài những mặt hàng được công nhận VietGAP là rau ăn lá và ăn củ, quả thì hiện giờ, Công ty Qnasafe đang nghiên cứu sản xuất các sản phẩm rau, củ, quả cao cấp. Và thị trường phục vụ vì thế sẽ không dừng lại ở các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên mà hướng đến cả nước cũng như xuất khẩu.
Tuy nhiên, “hiện chúng tôi phải thuê đất rải rác của nông dân các xã Nghĩa Dũng (TP. Quảng Ngãi), Đức Hiệp (Mộ Đức) với diện tích hơn 2ha để sản xuất nên rất bất tiện. Chúng tôi rất mong muốn được ngành chức năng tạo điều kiện về đất đai để đầu tư mở rộng quy mô sản xuất”, ông Trần Ngọc Âu - Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Qnasafe chia sẻ.
“Kiểm soát rau sạch ngay từ khâu sản xuất”
Đó là đề xuất của Phó Chi cục trưởng Nguyễn Đức Bình. Bởi theo ông Bình thì hiện giờ, người tiêu dùng đã bắt đầu quan tâm và sẵn sàng mua các mặt hàng rau sạch, được chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP với giá cao. Tuy nhiên, để tránh tình trạng “vàng thau lẫn lộn” – tức rau chợ vẫn có mặt trong cửa hàng rau sạch thì bản thân doanh nghiệp phải nghiêm khắc với người sản xuất.
Đơn cử như cách làm của Công ty Qnasafe. Đó là, cùng với việc cam kết bao tiêu đầu ra cho nông dân với giá cao thì trước khi đưa sản phẩm ra thị trường, Công ty này đều kiểm tra dư lượng nitrate và thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc sunfua, phốt phát, cianua bằng ELISA text. Nếu phát hiện nông dân nào không tuân thủ quy trình sản xuất, khiến sản phẩm tồn dư hóa chất vượt mức cho phép, công ty sẽ phạt tiền từ 20 triệu đồng/vụ đến chấm dứt hợp đồng. “Cách ràng buộc này giúp người sản xuất có trách nhiệm với sản phẩm của mình, từ đó góp phần nâng cao ý thức cũng như thói quen sản xuất rau chuyên nghiệp cho nông dân”, ông Nguyễn Đức Bình nhấn mạnh.
Có điều không phải đơn vị nào cũng đủ năng lực để áp dụng các biện pháp trên. Bởi theo bà Nguyễn Thị Anh Thư - Giám đốc HTX thì: “Việc text kiểm tra các mẫu đòi hỏi người thực hiện phải có chuyên môn sâu, máy móc hiện đại. Còn nếu gửi mẫu đến các Trung tâm kiểm nghiệm thì chi phí quá cao (hơn 1 triệu đồng/mẫu) nên dù rất muốn, HTX cũng không đủ nguồn lực thực hiện”. Vì thế nên HTX chỉ kiểm tra các chỉ tiêu qua mẫu nước và đất trước khi sản xuất, còn sản phẩm được sơ chế bằng cách sục Ozôn.
Rõ ràng, dù đã chạm được VietGAP nhưng chỗ đứng của rau an toàn vẫn còn lắm gập ghềnh. Khắc phục tình trạng này, cần sự nỗ lực của nhiều phía, mà trước hết là từ chính các đơn vị sản xuất và nông dân.
Có thể bạn quan tâm

Chăn nuôi đang là nguồn thu nhập chính của nhiều hộ dân trong tỉnh. Để bảo vệ đàn vật nuôi, kiểm soát dịch bệnh có vai trò đặc biệt quan trọng. Thời gian qua, mạng lưới thú y cơ sở luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần giúp chính quyền địa phương và cơ quan chuyên môn kiểm soát và phòng, chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi có hiệu quả..

Chương trình giúp hội viên phát triển kinh tế, nâng cao, cải thiện đời sống được các cấp hội nông dân (HND) trong tỉnh coi là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt quá trình hoạt động. Xác định, khoanh vùng, tìm hiểu nguyên nhân để hỗ trợ cái hội viên cần, nâng cao kiến thức còn thiếu của hội viên, đưa ra kế hoạch hành động cụ thể...

Thông qua các buổi sinh hoạt chi, tổ hội, tuyên truyền trên hệ thống loa truyền thanh vào dịp lễ của các vùng giáo về tinh thần đoàn kết trong nhân dân, đoàn kết lương giáo, nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi hội viên, nông dân vào việc xây dựng tổ chức hội vững mạnh.

Dự án khai thác tài nguyên bền vững vùng đồi dốc ở huyện Cẩm Thủy được Hội Khoa học thủy lợi Thanh Hóa thực hiện tại xã Cẩm Tâm từ năm 2010. Theo đó, dự án xây dựng 2 mô hình để thực hiện hỗ trợ, gồm: mô hình thu trữ nước mó và mô hình hạn chế lũ quét, bảo vệ môi trường.

Từ đầu năm đến tháng 10-2014, toàn xã đã đóng mới được 37 phương tiện, trong đó 8 phương tiện có công suất từ 48 đến 63 CV, 29 phương tiện có công suất từ 90 đến 550 CV và thành lập được 1 tổ dịch vụ hậu cần nghề cá trên biển với 4 tàu từ 250 CV trở lên, chủ yếu khai thác các loại hải sản xuất khẩu có giá trị kinh tế cao ở tầm trung và khơi xa.