Quay Về Giống Bản Địa

Với mong muốn giúp người thụ hưởng Chương trình 30a nhanh chóng thoát nghèo, các huyện nghèo trong tỉnh Quảng Ngãi đã chọn con giống lai có lợi thế về năng suất, sản lượng để hỗ trợ. Thế nhưng, hiệu quả mang lại là không cao.
Ưu tiên “giống bản địa”
Dễ dàng làm phép kiểm chứng hiệu quả của con giống lai và giống bản địa ở các huyện nghèo Quảng Ngãi thông qua việc hỗ trợ bò giống từ nguồn vốn Chương trình 30a.
Năm 2010, khi chọn con bò để hỗ trợ, một số huyện nghèo đã chọn loại bò lai, trị giá mỗi con gần 10 triệu đồng. Sau một năm cấp phát bò giống, tỉnh và huyện tổ chức kiểm tra. Số bò còn sống, phát triển chỉ khoảng 30 - 50%. Bước sang năm thứ 2, một số huyện đã quay sang “ưu tiên” con giống địa phương. Kết quả, sau một năm nuôi, số bò cấp cho dân đã sống, phát triển tốt tăng vọt lên 90%.
Tại huyện Sơn Hà, ban đầu UBND huyện cũng rất quan tâm đến hỗ trợ bò lai cho hộ nghèo. Thế nhưng sau khi hỗ trợ, tổ chức đi giám sát thì số lượng bò giống đã cấp gần như chết sạch. “Bò không chịu ăn cỏ tạp, nó chỉ biết uống nước thôi. Không ăn lâu ngày nó gầy rồi chết” – bà Đinh Thị So, thôn Hà Thành, xã Sơn Thành phân trần về cái chết của con bò giống “30a” được chính quyền hỗ trợ. Mặc dù trước khi cấp phát giống, ngành khuyến nông huyện đã tổ chức tập huấn kỹ thuật chăn nuôi, làm chuồng trại, trồng cỏ voi làm thức ăn cho bò... Thế nhưng, do kiến thức hạn chế cộng với thói quen chăn thả rông nên hầu hết số bò lai ở Sơn Hà được cấp phát đều đã chết vì không được chăm sóc đúng cách.
Năm 2013 này, khi phê duyệt phương án hỗ trợ con giống cho các xã, UBND huyện Sơn Hà đã “phê” rõ: “Chọn giống bản địa, khi nào giống bản địa không đủ thì mới chọn mua giống nơi khác về cấp phát”. Cách làm này được đồng bào Hrê nghèo ở Sơn Hà đồng tình. Già làng Đinh Văn Dớ, thôn Làng Mùng, xã Sơn Bao, bảo: “Con bò địa phương mới leo được núi kiếm cỏ ăn. Bò lai nó chỉ biết đứng một chỗ uống nước cám, ăn cỏ voi, khó nuôi lắm! Lãi ít cũng được, cứ phát bò địa phương cho dân làng mình đi!”.
Năm 2012, huyện Sơn Hà, Sơn Tây còn tổ chức thí điểm mô hình nuôi gà H’mông, vịt xiêm lai nhưng các mô hình này sau đấy tắt lịm bởi phần thì con giống chết, nhất là vịt xiêm lai. Số con còn sống nuôi lớn thì không có đầu ra. Năm 2012 chị Đinh Thị Giấy, ở thị trấn Di Lăng được chọn thí điểm nuôi gà H’mông. Chị than thở: “Gà nuôi lớn khó bán vì chân nó có 5 ngón, người mua chê không làm vật cúng được. Còn mua làm thức ăn thì gà này giá cao chẳng ai mua cả”. Thế là sau đó, chính quyền lại quay về với “gà thả vườn, gà ngủ cây”, để hỗ trợ người nghèo.
“Chốt” lại con giống!
Triển khai thực hiện Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị quyết 30a của Chính phủ, chỉ riêng khoản hỗ trợ con giống cho hộ nghèo Quảng Ngãi chăn nuôi đã lên đến hàng trăm tỷ đồng. Nhiều gia đình đã coi “của cho” này là món của cải lớn, ra sức chăm sóc, nâng niu, để vật nuôi sinh lợi. Nhưng cũng có không ít gia đình bỏ mặc theo kiểu “trời sinh voi sinh cỏ”, dẫn đến con giống chết rất nhiều.
Tại huyện Sơn Tây, một số gia đình ở xã Sơn Long, Sơn Tinh được hỗ trợ gà H’mông, vịt xiêm lai để nuôi. Hộ ông Đinh Văn Vót, thôn Mang He được cấp 80 con gà, nhưng sau 1 tháng chỉ còn vỏn vẹn có… 3 con. Ông Vót bảo: “Nó cứ chết dần chẳng rõ nguyên nhân. Có lẽ nó không hợp với làng mình!”. Sau 2 năm chọn gà, vịt xiêm lai hỗ trợ, đến năm thứ 3, Bí thư Huyện ủy Sơn Tây Đinh Kà Để chỉ đạo: “Dừng ngay việc chọn các con lai này hỗ trợ. Ở miền núi Sơn Tây chỉ có con trâu, con bò bản địa là thích nghi với khí hậu, tập quán chăn nuôi”. Thế là năm 2013, con trâu, con bò bản địa ở Sơn Tây lại đến với những hộ nghèo!
Ở huyện Minh Long, sau 3 năm cấp – nuôi heo lai siêu nạc không hiệu quả, UBND huyện đã quyết định chuyển hướng chọn heo cái bản địa, gà thả vườn để hỗ trợ cho hộ nghèo. Đến nay dù chưa đánh giá, nhưng qua kiểm tra sơ bộ, tỷ lệ sống rất cao so với “con lai” hỗ trợ trước đó.
Sau nhiều năm triển khai hỗ trợ con giống cho hộ nghèo ở Quảng Ngãi đến nay nhiều địa phương vẫn đang tiếp tục thực hiện “phép thử”. Hãy nhìn vào kết quả của nhiều năm thực hiện để có quyết định đúng đắn, tránh lãng phí thời gian của dân, tiền bạc của Nhà nước cho việc chọn con gì trong chặng đường 30a tiếp theo.
Có thể bạn quan tâm

Ngày 19-12, Sở KH&CN tổ chức nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu một số bệnh thường gặp trên một số loài cá biển nuôi tại BR-VT, đề xuất giải pháp phòng trị” do Thạc sĩ Bùi Quang Mạnh, Phân viện Nghiên cứu Hải sản phía Nam làm chủ nhiệm đề tài; Hội đồng nghiệm thu đã xếp đề tài loại Khá. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là xác định tác nhân gây bệnh thường gặp trên cá biển nuôi (mú, hồng, chẽm và cá bớp) tại BR-VT và đề xuất giải pháp phòng trị bệnh. Thời gian nghiên cứu từ tháng 11-2012 đến tháng 8-2014.

Những món ăn hấp dẫn từ bào ngư như: bào ngư chấm mù tạt – xì dầu; bào ngư nấu cháo toàn tính (thả cả vỏ vào cháo). Ngoài ra, dược tính của bào ngư sẽ công hiệu hơn khi kết hợp với các vị thuốc bắc trong món canh “bào ngư, hải sâm đen, tần thuốc bắc” – một món chuyên dùng cho người già yếu phục hồi sức khỏe.

Mô hình thực hiện với quy mô 100m3 lồng, 1.000 con cá giống với 2 hộ tham gia là ông Lê Văn Thư và Hà Văn Đức ở thôn Mạ, xã Vĩnh Kiên. Các hộ được hỗ trợ 100% con giống với kích cỡ tối thiểu 5cm/con, không còi cọc, dị hình, không mất nhớt, màu sắc tươi sáng và 50% thức ăn công nghiệp, 50% vôi bột tỏa, 50% thuốc phòng bệnh cho cá. Tổng số tiền hỗ trợ 47.150.000 đồng. Ngoài ra, các hộ nuôi còn được tập huấn về kỹ thuật chuẩn bị lồng nuôi, thả cá, chăm sóc quản lý, phòng bệnh cho cá...

Sáng 19/12, Hội đồng khoa học công nghệ cấp tỉnh Khánh Hòa tổ chức nghiệm thu loại khá đối với kết quả đề tài “Nghiên cứu xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo và nuôi thương phẩm sá sùng tại Khánh Hòa”. Chủ nhiệm đề tài là tiến sĩ Võ Thế Dũng - Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 3.

Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xuất cấp (không thu tiền) 30 tấn hóa chất Chlorine 65% min thuộc hàng dự trữ quốc gia hỗ trợ tỉnh Cà Mau phòng, chống dịch bệnh thủy sản.