Quản lý đàn cá tra bố mẹ

Chuẩn bị ao nuôi vỗ
Ao nuôi vỗ cá tra càng rộng càng thoáng thì càng tạo được điều kiện thuận lợi cho cá tra hoạt động.
Ao có diện tích trên 500 m2, được đào tại vùng đất thịt, ít bị nhiễm phèn, độ sâu mực nước 1,5 – 2,5 m, pH 7 – 8, hàm lượng ôxy hòa tan > 2 mg/l, nhiệt độ ao 25 – 300C.
Không đào ao trên nền đất cát, ao dễ sạt lở.
Ao được xây dựng gần nguồn nước cấp đảm bảo chất lượng sạch, không bị ô nhiễm nước thải công nghiệp, nông nghiệp hay nước thải sinh hoạt.
Nước không bị nhiễm kim loại nặng, nhiễm phèn, nhiễm chua.
Lớp bùn đáy mỏng, 5 – 10 cm, bờ ao chắc chắn, không bị rò rỉ, mái bờ nghiêng 30 – 400 để tránh sạt lở.
Trước khi thả cá cần cải tạo và chuẩn bị ao theo đúng quy chuẩn kỹ thuật.
Chuẩn bị bè nuôi vỗ
Cá bố mẹ nuôi vỗ trong bè có tỷ lệ thành thục và chất lượng sản phẩm sinh dục đều tốt.
Bè được đặt trên các đoạn sông có nước lưu thông sạch, không ô nhiễm, xa các cống nước thải.
Tránh các nơi có đất bồi lắng, nhiều rong tảo, phù sa.
Bè được làm bằng gỗ bền, lâu mục trong môi trường nước, inox, composite; vật liệu dễ được vệ sinh, dễ khử trùng, không bị ô nhiễm cho cá nuôi.
Bè được neo cố định tại một vị trí thuận lợi trên sông, nơi có dòng chảy thẳng và liên tục.
Mặt bè đặt nổi cao hơn mực nước sông 0,2 – 0,3 m, cách đáy ít nhất 0,5m.
Chọn đàn cá hậu bị
Có thể tuyển chọn từ đàn cá thịt.
Chọn những con cá khỏe mạnh, thân hình cân đối, không bị dị hình, dị tật, có trọng lượng 3 – 4 kg/con.
Nên chọn cá có nguồn gốc xa nhau, từ nhiều đàn khác nhau, để hạn chế sinh sản cận huyết.
Mật độ nuôi trong ao: 3 m3/1kg cá.
Mật độ nuôi trong lồng: 5 – 7 kg/10m3.
Tỷ lệ đực, cái: 1/1
Mùa vụ
Mùa vụ nuôi vỗ ở Nam bộ bắt đầu từ tháng 10 – 11 năm trước, kéo dài đến tháng 3 năm sau.
Nếu nuôi ở miền Trung thì thời gian đưa vào nuôi vỗ chậm hơn khoảng 1 tháng và đến tháng 4 năm sau thì bắt đầu mùa vụ cho cá đẻ.
Miền Bắc cần lên kế hoạch trú đông cho cá.
Quản lý, chăm sóc đàn cá bố mẹ
Thức ăn
Để cá bố mẹ thành thục tốt, cần cung cấp thức ăn đủ lượng và chất.
Hàm lượng protein trên 30%, lipid trên 10%.
Có thể dùng thức ăn công nghiệp và thức ăn tự chế.
Thức ăn và nguyên liệu dùng làm thức ăn cho cá đảm bảo sạch, không bị nấm mốc, quá hạn sử dụng.
Cách cho ăn
Cho ăn 2 lần/ngày, vào 7 – 8 giờ và 16 – 17 giờ.
Cho cá ăn với lượng 5 – 8 % trọng lượng thân đối với thức ăn tự chế và 2 – 3 % trọng lượng thân đối với thức ăn công nghiệp.
Nên cho cá ăn bằng sàng ăn tại nhiều điểm trong ao, bè.
Hằng ngày phải kiểm tra sàng ăn sau khi cho cá ăn khoảng 2 giờ, để xem sức ăn của cá và điều chỉnh cho phù hợp.
Những ngày thay đổi thời tiết, như nhiệt độ nước tăng cao trên 320C, nên cho cá nhịn ăn.
Quản lý ao, bè
Nuôi ao, cần định kỳ thay nước cho cá.
Từ tháng nuôi thứ 3 trở đi cần thay nước cho cá mỗi ngày 10 – 20% lượng nước trong ao để kích thích cá phát dục sớm.
Đối với bè nuôi, cần thường xuyên kiểm tra xung quanh bè để kịp thời can thiệp những chỗ hỏng hóc, loại bỏ chất bẩn, rong rêu, phù sa bám vào bè nuôi.
Thường xuyên theo dõi các yếu tố môi trường để có biện pháp can thiệp kịp thời, đặc biệt các yếu tố pH, ôxy hòa tan.
Khi pH < 5 cá sẽ chết, khi pH < 6 cá sẽ khó phát dục.
Nếu cá thường xuyên bị thiếu ôxy và nổi đầu liên tục thì chất lượng sản phẩm sinh dục không tốt.
Kiểm tra sự phát dục của cá bố mẹ
Sau khi nuôi hai tháng thì kiểm tra lần đầu, đánh giá độ béo và sức khỏe của cá, để có chế độ chăm sóc phù hợp.
Nếu cá quá béo thì giảm cho ăn hoặc cho ăn thức ăn ít hàm lượng dinh dưỡng hơn, kết hợp tăng cường lưu thông nước.
Sang tháng nuôi thứ ba, kiểm tra mức độ phát dục của cá để điều chỉnh chế độ nuôi vỗ.
Khi kiểm tra cá, nên dùng loại lưới kéo có sợi mềm, sử dụng băng ca có kích thước phù hợp kích thước của cá, để dễ bắt và kiểm tra cá.
Từ tháng thứ tư, đa số trứng cá đã sang giai đoạn 4, nhiều con đực đã có tinh dịch, cần kiểm tra cá mỗi tháng 2 lần.
Dùng tay sờ, nắn bụng và cảm nhận độ mềm của bụng để đánh giá sự phát dục của cá.
Dùng que thăm trứng lấy trứng của cá cái, vuốt tinh cá đực để kiểm tra độ thành thục của cá.
Bắt riêng những con cá đực và cá cái thành thục rồi lên kế hoạch cho đẻ.
Cá tra bố mẹ là vấn đề tiên quyết chất lượng đàn cá giống.
Cá tra bố mẹ không đủ tiêu chuẩn dẫn đến chất lượng sản phẩm sinh dục kém
Có thể bạn quan tâm

Cá tra Việt Nam vừa tăng lên vị trí thứ 6 trong bảng xếp hạng thủy sản yêu thích tại Mỹ nhưng người nuôi cá chưa hết lao đao. Phương pháp cho ăn gián đoạn đang được khuyến cáo để giúp người nuôi vượt qua giai đoạn khó khăn này...

Chí phi thuốc thú y thủy sản trong chăn nuôi cá tra chiếm 3 - 5% giá thành. Tuy nhiên việc dùng thuốc như thế nào để đạt hiệu quả kinh tế, kỹ thuật cao thì người nuôi chưa quan tâm đúng mức. Trong khi đó, thị trường thuốc thú y thủy sản đang rất phức tạp bởi tính đa dạng cũng như tính pháp lý của nó còn nhiều bất cập.

Bệnh thường xuất hiện vào mùa khô (tháng 3-6) và có thể kéo dài đến tháng 10. Cá bị xuất hiện đốm đỏ trên thân cá. Tỉ lệ chết có thể lên đến 80%.

Cá tra đánh bắt ngoài tự nhiên hoặc nuôi đăng quầng trong nước sông sạch thì luôn có thịt trắng, trong khi cá nuôi trong hầm, bè, nơi nước tù thì thịt cá bị vàng, chủ yếu do môi trường nước nuôi và chế độ cho ăn. Kinh nghiệm của nhiều bà con nuôi cá tra cho thấy: nếu sử dụng thức ăn xanh (rau muống), bắp, bí đỏ, cua đồng… thì thịt cá hay bị vàng.

Cá tra đã trở thành đối tượng cá nước ngọt được nuôi chủ yếu ở ĐBSCL. Sản lượng cá tra tăng nhanh từ khi nghề nuôi đã chủ động được nguồn giống và phát triển tốt thị trường xuất khẩu.