Pythium insidiosum - mầm bệnh nấm cơ hội trên tôm thẻ bố mẹ

Bài báo cáo này lược dịch kết quả nghiên cứu của Subhendu Kumar Otta và cộng sự 2018 đăng trên tạp chí Indian Journal of Geo Marine Sciences cho thấy một loài nấm gây bệnh cơ hội trên tôm thẻ chân trắng bố mẹ.
Thế nào là mầm bệnh cơ hội?
Nhiễm trùng cơ hội (opportunistic infection) là nhiễm trùng do vi khuẩn, virus, nấm hoặc ký sinh trùng gây bệnh gây ra khi hệ thống miễn dịch của cơ thể vật chủ bị suy yếu hoặc hoặc do tăng độc lực của các loài vi sinh vật.
Các mầm bệnh này không gây bệnh ở vật chủ khỏe mạnh có hệ miễn dịch bình thường. Tuy nhiên, một hệ thống miễn dịch bị tổn thương, bị suy yếu nghiêm trọng và giảm sức đề kháng với nhiễm trùng hoặc một vết thương, tạo một cơ hội cho mầm bệnh khác lây nhiễm.
Trong nuôi tôm các điều kiện môi trường tối ưu cùng với chế độ dinh dưỡng phù hợp là rất cần thiết cho sự trưởng thành của các cá thể tôm bố mẹ. Một trong những yêu cầu rất quan trọng là chất lượng nước biển phải gần giống với nước biển tự nhiên và không có mầm bệnh hoặc chất gây ô nhiễm. Đôi khi các trại giống vi phạm an toàn sinh học mà sử dụng biển trực tiếp chưa qua xử lý kỹ. Trong nghiên cứu hiện tại, việc sử dụng nước chất lượng chưa đảm bảo đã làm cho các cá thể tôm thẻ chân trắng bố mẹ SPF bị nhiễm trùng và bị tử vong. Một cuộc điều tra có hệ thống đã cho thấy một mầm bệnh nấm cơ hội, là loài nấm Pythium insidiosum chịu trách nhiệm cho nguyên nhân gây tử vong của tôm thẻ chân trắng bố mẹ.
Mầm bệnh nấm cơ hội trên tôm thẻ bố mẹ
Tôm thẻ chân trắng bố mẹ trưởng thành (5 cặp) bao gồm cả đực và cái được đưa vào lấy mẫu. Các mẫu bao gồm cả động vật bị nhiễm bệnh, gần chết và trông khỏe mạnh. Để tách chiết DNA và RNA.
Trích xuất DNA, phản ứng PCR và sử dụng để phát hiện cả DNA cũng như RNA virus. Các phương pháp khác để xác định vi khuẩn gây bệnh cũng được tiến hành. Để phát hiện mầm bệnh nấm, mang tôm bị nhiễm bệnh đổi màu đen được sử dụng để chiết xuất DNA.
Kết quả và thảo luận
Những con cá bố mẹ trưởng thành của L. vannamei đã được nhập khẩu và theo dõi ban đầu tại cơ sở kiểm dịch, khi nó đến Ấn Độ. Sau khi sàng lọc sơ bộ, các mẫu sau đó được chứng nhận vận chuyển đến một trại giống được chỉ định ở bờ biển phía đông Ấn Độ. Các động vật được tiếp tục thích nghi với điều kiện trại giống và trong giai đoạn này, tỷ lệ tử vong thấp (1-2 con/ngày) đã được báo cáo. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong đã tăng lên sau khi cắt bỏ cuống mắt và ảnh hưởng của nó nhiều hơn ở tôm cái. Các mẫu được thu thập trong thời gian tỷ lệ tử vong tăng.
Tôm bị nhiễm bệnh biểu hiện loét ở vùng đốt đuôi (Hình 1a), sự đổi màu vàng của thân và màu đen của mang (Hình 1b)
Nghiên cứu cho thấy tôm bệnh bị loại trừ khả năng nhiễm IMNV, Virus Hội chứng Taura (TSV) và Virus đầu vàng (YHV) và Virus hội chứng đốm trắng (WSSV). Kết quả PCR cũng chỉ ra rằng các cá bố mẹ này cũng âm tính với virus gây bệnh hoại tử cơ quan tạo máu và cơ quan lập biểu mô (IHHNV). Do đó, bất kỳ căng thẳng và tỷ lệ tử vong liên quan đến virus đã được loại trừ.
Vì hoại tử đã được quan sát trên bề mặt cơ thể (vùng đốt đuôi) của tôm bố mẹ, người ta cho rằng có thể có nhiễm trùng do vi khuẩn. Do đó, kháng sinh đã được áp dụng thông qua thức ăn để kiểm tra nhiễm khuẩn. Tuy nhiên tỷ lệ tử vong tiếp tục dù có sử dụng kháng sinh, do đó tỷ lệ tử vong của tôm có thể không phải do nhiễm vi khuẩn.
Thông thường, than hoạt tính được sử dụng trong quá trình vận chuyển tôm bố mẹ để giảm amoniac và các loại khí độc khác từ nước. Do đó, ban đầu người ta cho rằng sự đổi màu đen có thể là do sự lắng đọng hạt carbon trên các sợi mang. Tuy nhiên khi quan sát bằng kính hiển vi thì không thấy bất kỳ dấu hiệu nào của hạt carbon hoặc sự hiện diện của ký sinh trùng. Nhóm nghiên cứu đã kiểm tra mô bệnh học của các sợi mang thông qua nhuộm H & E. Kết quả cho thấy sự hiện diện của sợi nấm xâm lấn cao (Hình 2A & B).
Phần mô bệnh học của sợi mang cho thấy bào tử nấm và sợi nấm xâm lấn cao.
P. insidiosum là một loài nấm chịu trách nhiệm về bệnh pythiosis ở người, có phân bố trên toàn thế giới và thường lây nhiễm cho ngựa, gia súc, chó, mèo và cá. Một số số loài này đã được phân lập từ khu vực nông nghiệp hoặc môi trường nước. Một trong những loài thuộc họ Pythium myophilum, trước đây được gọi là Lagenidium myophilum, đã được báo cáo là gây ra nhiễm trùng bụng đen cho tôm. Tuy nhiên, P. insidiosum chưa bao giờ được báo cáo từ tôm hoặc các động vật không xương sống khác. Trong một trong những nghiên cứu thực nghiệm, Người ta dự đoán rằng tôm bị căng thẳng liên quan đến vận chuyển và các biện pháp an toàn sinh học nghiêm ngặt đã không được áp dụng trong trại giống. Do đó, nấm có cơ hội xâm chiếm tôm. Hơn nữa, vì kháng sinh đã được áp dụng để kiểm soát nhiễm trùng vi khuẩn, điều đó có thể đã mang lại không gian lý tưởng cho nấm để nhân lên dễ dàng.
Cây phân loài của loài nấm gây bệnh cơ hội trên tôm thẻ bố mẹ
Đây là báo cáo đầu tiên chỉ ra loài nấm này là mầm bệnh cơ hội cho tôm. Tỷ lệ tử vong có thể xảy ra do suy hô hấp vì mang đầy nấm sợi xâm lấn. Sự đổi màu đen và nhạt của mang là do sự hiện diện của nấm cũng như do hoại tử của các sợi mang do nấm gây ra.
Vì các đàn bố mẹ này đã được nhập khẩu dưới dạng sạch bệnh SPF sau khi kiểm dịch thích hợp và được coi là không có các mầm bệnh đã biết, nó có thể đã bị nhiễm qua ô nhiễm cục bộ. Do đó, việc duy trì các biện pháp an toàn sinh học nghiêm ngặt là rất cần thiết để ngăn ngừa nhiễm trùng như vậy khỏi mầm bệnh cơ hội.
Indian Journal of Geo Marine Sciences Vol. 47 (05), May 2018, pp. 1036-1041
Có thể bạn quan tâm

Bài viết dưới đây giới thiệu các chỉ tiêu chất lượng nước cần theo dõi trong ao nuôi tôm thẻ chân trắng - được dịch từ Sổ tay nuôi tôm thẻ chân trắng của Hawaii - Mỹ.

Tốc độ tăng trưởng kém, bệnh tật, tỉ lệ chết xảy ra ở các ao nuôi tôm ngay cả khi mọi biến số quan trọng của chất lượng nước được đo trong cột nước ở trong mức chấp nhận được, tình trạng đáy ao xấu được cho là hạn chế nghiêm trọng đến năng suất nuôi của ao nuôi bán thâm canh và thâm canh. Do môi trường đất đáy ao diễn ra nhiều quá trình phản ứng tác động đến chất lượng nước nên người nuôi tôm luôn phải chú trọng đến các vấn đề như là: - Đất hữu cơ hoặc đất phèn tiềm tàng ở khu vực xây dựng ao -Trầm tích, bùn lắng - Chất hữu cơ tích tụ và trạng thái hoạt động yếm khí ở đáy ao.

Cách phổ biến để gia tăng năng suất tự nhiên của ao nuôi thủy sản là gia tăng độ phì diêu của ao bằng phân bón vô cơ và hữu cơ. Đối với các loài tôm cá ăn đáy thì động vật đáy đóng góp quan trọng trong thức ăn của chúng và ví thế bón phân cho đất thay vì cho nước là càng hiệu quả. Bón phân thường theo sau bón vôi khoảng 20-25 ngày. Phân bón phải rải đều khắp đáy ao và đảo trộn.

Ngoài các yếu tố quan trọng của chất lượng nước như oxygen hòa tan, nhiệt độ, độ mặn, pH, đồ kiềm, ammonia, nitrite, sulfide, BOD phải theo dõi trong hoạt động nuôi tôm thì thuốc trừ sâu và kim loại nặng có từ các hoạt động nông nghiệp và công nghiệp khác đổ vào nguồn nước sử dụng nuôi tôm cần được theo dõi và kiểm soát.

Các hợp chất nitrogen luôn được tái tuần hoàn trong ao thông qua 3 tiến trình: tái tạo, chuyển hóa và tiêu thụ. Thức ăn tôm cá là nguồn cung cấp nitrogen chủ yếu trong ao bởi vì nó chứa hàm lượng đạm protein tương đối có từ các nguồn nguyên liệu chế biến thức ăn như bột cá, bột thịt xương, bột đậu nành. Những nguồn đạm này được tôm cá tiêu thụ và thải ra dưới dạng ammonia. Các vi khuẩn có lợi sẽ chuyễn ammonia thành nitrite là những sản phẩm rất độc cho tôm cá, tiến trình tiếp tục sẽ chuyển nitrite thành nitrate cũng do vi khuẩn có lợi (Tiến trình này gọi là Nitrate hóa). Nitrate thường không độc trong môi trường ao và có thể sử dụng như nguồn phân bón cho các loài tảo phát triển trong ao và trong một số trường hợp yếm khí nitrate sẽ được chuyển hóa thành khí nitơ tự do.