Phát Triển Thủy Lợi Góp Phần Thúc Đẩy Sản Xuất Nông Nghiệp

Theo Sở Nông nghiệp – PTNT tỉnh thì qua 6 năm thực hiện Nghị quyết 12/2006/NQ – HĐND của HĐND tỉnh về phát triển thủy lợi vừa và nhỏ, hiện tại trên địa bàn tỉnh đã xây dựng và đưa vào khai thác 200 công trình thủy lợi các loại, với tổng dung tích hữu ích hồ chứa trên 213 triệu m3.
Trong đó, có 94 hồ chứa và đập dâng, 6 công trình trạm bơm, kênh tiêu, kênh tưới, hàng năm, phục vụ nước tưới cho gần 34.000 ha cây trồng các loại, chiếm 54% tổng diện tích cây trồng. Đối với cây trồng cạn, các công trình thủy lợi đáp ứng nước tưới cho 21.958 ha cà phê, hồ tiêu và 2.517 ha hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày…
Theo đánh giá của ngành chuyên môn, thời gian qua, các công trình thủy lợi sau khi bàn giao đưa vào sử dụng đã phát huy được hiệu quả thiết thực. Điển hình, tại huyện Krông Nô, toàn huyện đã đầu tư xây dựng được 8 công trình thủy lợi, phân bổ đều trên địa bàn. Vì vậy, từ năm 2006 đến nay, diện tích sản xuất lúa nước 2 vụ của huyện được nâng lên từ 1.300 ha lên trên 2.000 ha; còn diện tích ngô lai đông xuân từ 914 ha lên 1.929 ha.
Đối với cây công nghiệp dài ngày như cà phê, hồ tiêu… nhờ có các công trình thủy lợi cùng với các ao hồ do người dân tự đào đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu nguồn nước tưới. Cùng với việc tăng diện tích gieo trồng do chủ động được nguồn nước tưới thì hệ số sử dụng đất cũng tăng lên, hiện nay đã đạt 1,5 lần.
Có thể nói, các công trình thủy lợi đưa vào khai thác đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đầu tư thâm canh, áp dụng hiệu quả các biện pháp khoa học kỹ thuật, nên năng suất cây lúa nước từ 4,89 tấn/ha năm 2006, đến nay tăng bình quân 6,8 tấn/ha. Có địa phương thâm canh tốt đã đạt trung bình 7-8 tấn/ha như các xã Đắk Nang, Đức Xuyên, Buôn Choáh, Nâm N’đir…
Đối với cây ngô lai, năm 2006, năng suất cây ngô mới chỉ đạt 5,6 tấn/ha, đến nay, bình quân đã đạt ngưỡng 7,5 tấn/ha. Mặt khác, các công trình thủy lợi còn giữ vai trò quan trọng trong việc điều tiết nước, giảm bớt dòng chảy khi mưa lớn và tập trung khắc phục một phần tình trạng úng lũ cục bộ tại địa phương.
Còn tại huyện Đắk Mil, việc quy hoạch, xây dựng hệ thống công trình thủy lợi trên địa bàn cũng được địa phương gắn với quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011 – 2020 cũng như lồng ghép với chương trình xây dựng nông thôn mới…
Theo đó, song song với việc đầu tư xây dựng, nâng cấp hơn 56 công trình thủy lợi, địa phương đã khuyến khích, vận động người dân góp công, góp tiền của đào đắp được hàng trăm công trình hồ, đập và 54 km kênh mương nội đồng.
Trong đó, có gần 20 km kênh mương đã được bê tông hóa, cơ bản đáp ứng nhu cầu tưới cho cây trồng. Đến nay, huyện Đắk Mil đã thành lập được 1 hợp tác xã dùng nước và 8 tổ hợp tác dùng nước ở các xã. Điều đáng ghi nhận là hiện hệ thống các công trình thủy lợi đã cơ bản đáp ứng nhu cầu tưới cho trên 350 ha lúa nước và hàng ngàn hécta cà phê.
Ngoài huyện Krông Nô, Đắk Mil thì hiện nay, việc phát triển thủy lợi vừa và nhỏ ở các huyện còn lại của tỉnh cũng được đầu tư, xây dựng khá đồng bộ, từng bước hoàn chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp của các địa phương.
Cùng với việc đầu tư hệ thống thủy lợi, tỉnh còn ban hành các quy định về quản lý, khai thác công trình thủy lợi, đảm bảo đúng quy định của Bộ Nông nghiệp và PTNT, phù hợp với điều kiện của địa phương. Hiện nay, trong tổng số 200 công trình thủy lợi, Công ty TNHH MTV Quản lý Khai thác công trình thủy lợi Đắk Nông quản lý 156 công trình, UBND các xã quản lý 32 công trình, các công ty, đơn vị khác quản lý 12 công trình.
Nhờ chú trọng đầu tư xây dựng công trình thủy lợi, kiện toàn ban quản lý, khai thác, sử dụng công trình nước hợp lý đã góp phần từng bước hoàn thiện hệ thống hạ tầng sản xuất, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển, làm thay đổi bộ mặt nông thôn và cải thiện môi trường sinh thái.
Các công trình thủy lợi còn kết hợp với cấp nước sinh hoạt cho đồng bào vùng sâu, vùng xa đã giúp giảm bớt khó khăn thiếu nước trong mùa khô. Bên cạnh đó, các công trình hồ chứa lớn, nhỏ trên địa bàn còn tham gia tích cực vào công tác phòng chống thiên tai trong mùa mưa lũ cũng như phục vụ nuôi trồng thủy sản, tạo việc làm, cải thiện thu nhập cho người dân ở khu vực nông thôn.
Có thể bạn quan tâm

Trước sự phát tán quá nhanh và mức độ nguy hại của cá lau kiếng, Sở KH-CN vừa chỉ định Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh Bạc Liêu triển khai đề tài nghiên cứu khoa học: “Đánh giá sơ bộ sự phát tán và tác hại của cá lau kiếng trên địa bàn tỉnh”. Mục tiêu đề tài là nhằm xác định vùng phân bố và mức độ phong phú của nó so với các loài cá bản địa, đồng thời đưa ra giải pháp phòng trừ hiệu quả.

“Nuôi sò huyết bao giờ cũng có tỷ lệ hao hụt nhất định” - anh Nguyễn Văn Sơn, ấp 7, xã Thạnh Phước (Bình Đại - Bến Tre) cho biết như thế, nhưng hiện tượng sò chết hàng loạt, liên tiếp nhiều sân như năm nay là bất bình thường. Nguyên nhân có thể là do thời tiết, ô nhiễm nguồn nước xả thải, nắng nóng, chất lượng con giống ngoài thị trường không tốt hoặc cũng có thể do dịch bệnh…

Ngày 31/7, Trung tâm Khuyến nông - Khuyên ngư tỉnh kết hợp với Phòng Kinh tế thành phố Cà Mau tổ chức hội thảo mô hình nuôi vịt thịt an toàn sinh học.

Là một xã vùng biển bãi ngang, toàn bộ diện tích đất tự nhiên của Triệu Vân nằm trong vùng cát của huyện Triệu Phong (Quảng Trị), do đó canh tác nông nghiệp khó khăn và nguồn nước tưới không đảm bảo. Nguồn thu nhập từ biển của ngư dân Triệu Vân không nhiều lắm do chủ yếu đánh bắt ven bờ

Từ ngày 6-9 tới, chủ cơ sở nuôi chim yến phải khai báo với phòng chuyên môn cấp huyện, nơi có cơ sở nuôi chim yến, trường hợp đã nuôi chim yến trước ngày 6-9 thì phải khai báo chậm nhất vào ngày 31-12-2013. Khi có sự thay đổi về quy mô diện tích và số lượng của cơ sở nuôi chim yến, tổ chức, cá nhân nuôi chim yến phải khai báo chậm nhất vào ngày 30-10 hàng năm.