Phát triển, đa dạng sản phẩm cá tra: Không dễ

Đứng trước mục tiêu của Chính phủ đến năm 2020, tỷ trọng sản phẩm thủy sản giá trị gia tăng (GTGT) XK đạt 50% và đến năm 2030, tỷ trọng này đạt 60% (trong đó có ngành cá tra) quả là một kỳ vọng khó có thể thực hiện được…
Hãy nhìn lại chặng đường 15 năm XK cá tra Việt Nam để thấy được hiện trạng và tiến trình đổi mới sản phẩm này.
Năm 2000, thị trường XK cá tra hẹp với 8 nước lớn, trong đó, Mỹ và Nhật Bản đã chiếm đến 83% giá trị XK với tổng lượng xuất là 689 tấn tương đương 2,59 triệu USD và 100% là sản phẩm cá tra, basa đông lạnh.
10 năm sau là giai đoạn tăng trưởng “nóng” của ngành cá tra khi thị trường XK tăng hơn 140 thị trường, trong đó 5 thị trường XK lớn nhất là: EU, Mỹ, Mexico, ASEAN và Nga chiếm 59% tổng khối lượng XK và 63,3% tổng giá trị XK.
Trong khoảng thời gian này, khối lượng cá tra XK tăng 970 lần lên hơn 660 nghìn tấn và giá trị XK tăng 570 lần lên 1,42 tỷ USD.
So với năm 2000, sản phẩm cá tra XK năm 2010 đa dạng đến hơn 30 loại: từ nguyên con, cắt khúc, phile đến cắt khúc tẩm bột chiên sơ, cắt miếng tẩm gia vị đông lạnh, tôm và cá tra quấn khoai tây, xiên que, cá tra quấn cá hồi, cá tra nướng, tẩm bột “beer batter" đông lạnh, tẩm bột "Western style" đông lạnh…
So với nhóm hàng XK hải sản, việc đa dạng hóa sản phẩm XK cá tra khó khăn hơn.
Do đó để “làm mới” sản phẩm các DN đã kết hợp cá tra với các loại rau củ, thủy sản khác (cá hồi, tôm…) hay tẩm ướt nhiều loại gia vị theo thị hiếu của từng thị trường.
Năm 2010, sản phẩm cá tra chế biến (thuộc mã HS16) chiếm 0,75% tổng giá trị XK.
Hơn 70% sản phẩm các tra GTGT XK sang thị trường EU như: Hà Lan, Thụy Sỹ, Đức… còn lại là các thị trường khác như: Australia, Singapore, Philippines, Pakistan…
Thị trường không mở rộng thêm, kim ngạch XK cá tra 8 tháng đầu năm 2015 đạt 1,02 tỷ USD.
Đã có hơn 35 loại sản phẩm cá tra, basa khác nhau XK, cá tra đông lạnh (HS 03) vẫn chiếm đến 98,89%, cá tra chế biến chỉ chiếm 1,11% tổng giá trị NK.
Trong đó, 65% sản phẩm cá tra chế biến XK sang thị trường EU.
Mặc dù đã cố gắng đa dạng hóa sản phẩm XK bằng cách tận dụng tối đa từ chính phẩm tới cả phụ phẩm, chế phẩm (da cá, bao tử, bong bóng, mỡ, thịt vụn, getalin…), hay phối kết hợp với các loại rau củ, thủy sản, tẩm ướp gia vị để ra sản phẩm mới nhưng tỷ trọng hàng GTGT vẫn chiếm tỷ trọng quá nhỏ bé trong tổng giá trị XK.
Theo phản ánh của các DN XK cá tra, việc đổi mới sản phẩm XK đến nay vẫn do yêu cầu từ thị trường, khách hàng hay tự thân DN sáng tạo, tìm tòi.
Nhưng do hoạt động quảng bá, phát triển thương hiệu của Nhà nước tại thị trường nước ngoài yếu, chiến lược marketing, thuyết phục khách hàng chưa cao nên nhiều sản phẩm mới sản xuất thử nghiệm chưa thực sự thành công.
Hơn nữa, trong bối cảnh khó khăn như hiện nay, giá hàng GTGT cao hơn so với hàng đông lạnh nên ít đối tác đặt hàng hoặc đơn hàng nhỏ, không thường xuyên.
Trong khi đó, chi phí sản xuất, nhân công trong sản xuất, thăm dò thị trường cao khiến cho DN không lời.
Hiện nay, thay vì mua sản phẩm cá tra đông lạnh về EU sau đó thực hiện công đoạn rã đông rồi tẩm, ướp gia vị nhiều khách hàng Châu Âu đang mua sản phẩm cá tra tươi rồi thực hiện tẩm ướp gia vị để làm một số mặt hàng GTGT như: Basa burger, Marinaded butterfly; Marinaded fillet… ngay tại nhà máy Việt Nam.
Nếu những dự án kết hợp này thành công, nhiều DN chế biến cá tra sẽ có thêm nhiều cơ hội tăng sản phẩm chế biến trong cơ cấu XK.
Nhu cầu của nhiều thị trường NK, nhất là EU đối sản phẩm cá tra GTGT trong tương lai là khá lớn.
DN nhận thức được tiềm năng cho nhóm hàng này nhưng lại còn rất nhiều khó khăn trong việc phát triển các sản phẩm mới.
Trong 10 - 15 năm nữa, để đạt được mục tiêu chiến lược mà chính phủ đã đề ra là nâng cao tỷ trọng hàng thủy sản GTGT và phát triển bền vững, làm như thế nào để đẩy tỷ lệ hàng GTGT chiếm dưới 1,5% tổng GTXK trong năm 2015 lên 50% trong năm 2020 quả là bài toán khó cho cả Nhà nước và DN.
Có thể bạn quan tâm

VASEP yêu cầu DOC phải thực hiện nhất quán trong việc sử dụng Bangladesh làm quốc gia thay thế để tính giá trị đầu vào đối với cá tra Việt Nam trong quyết định cuối cùng của đợt xem xét hành chính lần thứ 08 và 09 như các năm trước đây.

Trước tình trạng hầu hết nguyên liệu sản xuất phải nhập khẩu khiến giá thức ăn chăn nuôi (TĂCN) tăng phi mã, các nhà khoa học đã đưa ra một số nguyên liệu như thóc, gạo, sắn… thay thế để giảm chi phí đầu vào.

Cụt cánh tay trái do vấp phải bom bi trong một lần đào gốc tre, những tưởng cuộc sống của anh sẽ rơi vào khốn khó. Nhưng bằng ý chí và nghị lực của mình, anh đã dần vượt qua được khó khăn, mặc cảm để đưa gia đình vươn lên làm giàu bằng nghề chăn nuôi vịt đồng. Đó là anh Võ Văn Đề, 51 tuổi ở thôn Hội Yên, xã Hải Quế, huyện Hải Lăng (Quảng Trị)…

Đi tham quan mô hình gồm có 150 gian chuồng mới được dựng lên kiên cố trên diện tích nhà hình chữ U rộng khoảng 200m2, chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng. Hệ thống điện, các ô cửa cho ánh sáng tự nhiên, khoang chứa nước… đều được bố trí khoa học, đầy đủ, rất thuận tiện cho việc chăm sóc vật nuôi.

Theo Matthew Briggs, cố vấn nuôi trồng thủy sản của công ty Ridley Aquafeed với hơn chục năm kinh nghiệm trong ngành tôm Đông Nam Á, thiếu hụt do Hội chứng EMS khắp châu Á nhiều khả năng sẽ kéo dài ít nhất trong vài năm tới, thậm chí “có thể lâu hơn”