Phân bón Lâm Thao tăng năng suất cây chè

Nhu cầu về điều kiện đất đai
Chè (Camellia sinensis O.Kuntze) là cây công nghiệp có chu kỳ kinh tế dài, hiệu quả kinh tế cao và ổn định. Diện tích chè gieo trồng ở Việt Nam năm 2013 đạt 129.100 ha, trong đó chè SXKD 115.800 ha, năng suất bình quân đạt 7,97 tấn búp tươi/ha.
Chè là loại cây có rễ ăn nông, đất trồng càng có nhiều mùn càng tốt, độ dày tầng đất ít nhất phải > 60 cm, đất giữ ẩm tốt nhưng phải thoát nước.
Đất trồng chè phải có phản ứng chua, pH tốt nhất là 5,0 - 5,5; pH > 6 thì không nên trồng chè vì khi pH > 7 thì chè có thể bị chết, pH < 4 thì chè phát triển rất kém.
Cây chè được trồng trên nhiều loại đất khác nhau như bazan, phù sa cổ trên phiến thạch và sa thạch với mật độ khoảng 10.000 hốc/ha. Tuy nhiên, đất trồng chè đa số chỉ có tầng canh tác dày 50 - 70 cm, hiếm khi trên 1 m.
Lượng mưa tập trung theo mùa làm cho đất bị rửa trôi, xói mòn trong mùa mưa; còn mùa khô thì hạn hán trầm trọng, thậm chí ngay vào thời điểm mùa mưa cây chè vẫn bị hạn do đất dốc không giữ được nước.
Một yếu tố quan trọng bậc nhất trong thâm canh để phát huy tiềm năng giống và chất lượng sản phẩm là sử dụng phân bón hợp lý.
Bón phân cho cây chè (tính cho 1 sào Bắc bộ 360 m2)
+ Bón lót: Sau khi làm đất kỹ, xẻ rãnh, rạch hàng với độ sâu của rãnh 40 - 50 cm, rộng 40 - 50 cm, đáy 30 - 35 cm. Phân hữu cơ 0,7 - 1,0 tấn và 20 - 25 kg NPK-S 5.10.3-8 Lâm Thao.
+ Bón cho chè 1 tuổi: Sử dụng phân NPK-S 12.5.10-14 hoặc NPK-S 10.5.10-5 Lâm Thao với liều lượng 12 - 14 kg/năm và được bón 2 lần vào tháng 3 và tháng 7. Mỗi lần bón 6 - 7 kg.
+ Bón cho chè 2 tuổi: Sử dụng phân NPK-S 12.5.10-14 hoặc NPK-S 10.5.10-5 Lâm Thao với liều lượng 24 - 28 kg/năm và được bón 2 lần vào tháng 3 và tháng 7. Mỗi lần bón 12 - 14 kg. Thời kỳ và cách bón như bón cho chè 1 tuổi.
+ Bón phân hữu cơ theo chu kỳ: 5 năm bón 1 lần cho chè kinh doanh. Cách bón: Cày 2 xá cày trùng nhau, vét rãnh sâu 20 cm, bón xuống rãnh 0,7 - 1,0 tấn hữu cơ rồi lấp kín. Thời kỳ bón tháng 11 hoặc tháng 1.
+ Bón phân vô cơ cho chè kinh doanh: Căn cứ vào năng suất búp tươi mà dùng lượng phân thích hợp, bón 3 lần/năm vào tháng 2 hoặc 3, tháng 5 hoặc 6 và tháng 8 hoặc 9.
Nếu bón NPK theo tỷ lệ và liều lượng 240 N, 130 P2O5, 160 K2O cho 1 ha theo quy trình tiêu chuẩn ngành và sử dụng phân bón Lâm Thao NPK-S 12.5.10-14 liều lượng bón cho 1 sào Bắc bộ (kg/360 m2) như sau:
Bón lần 1 (cuối tháng 2, đầu tháng 3) từ 22 - 27 kg.
Bón lần 2 (tháng 5 - 6) từ 22 - 27 kg.
Bón lần 3 (tháng 8 - 9) từ 18 - 24kg.
+ Bón phân cho một số giống chè mới
- Đối với giống Phúc Vân Tiên và Shan Chất Tiền tại Phú Hộ (Phú Thọ) với tổng lượng bón N + P2O5 + K2O = 300 kg/ha và trên nền 20 tấn phân chuồng/ha.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ N:P:K tốt nhất cho giống chè (tuổi 4) Shan Chất Tiền là 3:1:2 để SX chè đen và cho giống Phúc Vân Tiên để SX chè xanh.
Do đó nên sử dụng phân bón Lâm Thao NPK-S 12.5.10-14 với liều lượng bón cho 1 sào Bắc bộ (kg/360 m2) như sau:
Bón lần 1 (cuối tháng 2, đầu tháng 3) từ 16 - 18 kg.
Bón lần 2 (tháng 5 - 6) từ 16 - 18 kg.
Bón lần 3 (tháng 8 - 9) từ 13 - 15 kg.
Còn phân chuồng bón 0,7 - 0,8 tấn/sào vào tháng 11 hoặc tháng 1.
- Đối với giống chè LDP1 và LDP2 ở đầu thời kỳ kinh doanh (tuổi 3 - 4) thì tỷ lệ 3:1:1,5 và liều lượng NPK (kg/ha) là 120 N + 40 P2O5 + 60 K2O.
Do đó nên sử dụng phân bón Lâm Thao NPK-S 12.5.10-14 với liều lượng bón cho 1 sào Bắc bộ (kg/360 m2) như sau:
Bón lần 1 (cuối tháng 2, đầu tháng 3) từ 12 - 14 kg.
Bón lần 2 (tháng 5 - 6) từ 12 - 14 kg.
Bón lần 3 (tháng 8 - 9) từ 9 - 11 kg.
- Đối với giống chè LDP1 và LDP2 ở thời kỳ kinh doanh đạt năng suất 10 -11 tấn/ha thì tỷ lệ 3:1;1 và liều lượng NPK (kg/ha) là 300 N + 100 P2O5 + 100 K2O.
Do đó nên sử dụng phân bón Lâm Thao NPK-S 10.5.5-3 với liều lượng bón cho 1 sào Bắc bộ (kg/360 m2) như sau:
Bón lần 1 (cuối tháng 2, đầu tháng 3) từ 38 - 40kg.
Bón lần 2 (tháng 5 - 6) từ 38 - 40 kg.
Bón lần 3 (tháng 8 - 9) từ 30 - 32 kg.
- Đối với giống chè PH8 đạt năng suất 10 - 11 tấn/ha ở Phú Hộ thì tỷ lệ 3:1:1 với lượng 35 kg N/tấn sản phẩm và liều lượng NPK (kg/ha) là 350 N + 120 P2O5 + 120 K2O.
Do đó nên sử dụng phân bón Lâm Thao NPK-S 10.5.5-3 với liều lượng bón cho 1 sào Bắc bộ (kg/360 m2) như sau:
Bón lần 1 (cuối tháng 2, đầu tháng 3) từ 44 - 46 kg.
Bón lần 2 (tháng 5 - 6) từ 44 - 46kg.
Bón lần 3 (tháng 8 - 9) từ 35 - 37 kg.
Chúc nông dân trồng chè sử dụng phân bón Lâm Thao theo “4 đúng” gồm đúng chủng loại, đúng liều lượng, đúng thời gian, đúng phương pháp để đạt năng suất và chất lượng chè cao.
Có thể bạn quan tâm

Cầm trên tay con cua lột mềm nhũn vừa vớt lên, ông Hai Trâm - nông dân có thâm niên nuôi cua lột ở Phước Lại (Cần Giuộc, Long An) hồ hởi: “Sản phẩm cua lột của người dân Cần Giuộc chúng tôi không chỉ là món đặc sản của nhiều nhà hàng lớn trên Sài Gòn, mà nay còn xuất cả sang Tây”…

Trong vài năm trở lại đây, phát huy tiềm năng của địa phương, bà con các dân tộc ở Hồng Định đã đưa nhiều giống ngô mới vào gieo trồng. Kết quả là cây ngô đã trở thành cây có sản lượng lớn nhất và mang lại thu nhập cao nhất cho bà con trong số các cây nông nghiệp. Tuy nhiên, hầu hết bà con bán ngô ngay sau khi thu hoạch vì không có cách bảo quản tốt. Giá bán vì thế mà rẻ và thường xuyên bị tư thương ép giá. Những hộ gia đình để sau một vài tháng mới bán, được giá cao thì lại bị mối, mọt, làm hao hụt sản lượng ngô.

Để nông nghiệp Việt Nam đứng vững và phát triển sau khi gia nhập WTO, đòi hỏi Việt Nam phải xây dựng mô hình nông nghiệp tiên tiến. Mô hình nông nghiệp tiên tiến là mô hình hướng công nghệ cao, có một số đặc trưng sau đây

Việt Nam là quốc gia xuất gạo lớn, nhưng tập quán canh tác lại khá lạc hậu, năng suất cao nhưng chất lượng thấp. Để giảm chi phí cho nông dân, tăng giá trị loại hàng thế mạnh này, Bộ NN&PTNT đang triển khai và nhân rộng mô hình lúa gieo sạ thẳng hàng - được coi là hướng đi tất yếu của nền nông nghiệp hiện đại

Thời gian gần đây, trên địa bàn tỉnh Hậu Giang và nhiều tỉnh, thành lân cận thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), bệnh chổi rồng trên cây nhãn đã làm nhà vườn thất thu từ 10 đến 90% sản lượng. Có nhiều tỉnh, thành đã công bố dịch và tập trung nhiều giải pháp để phòng, trừ dịch nhằm hạn chế sự lây lan.