Ông Trần Phương Giàu Lên Nhờ Nuôi Bò Sinh Sản

Ông Trần Phương là tấm gương nông dân sản xuất giỏi ở thôn Mỹ Nhơn, xã Bắc Phong (Thuận Bắc). Từ trồng lúa và nuôi bò sinh sản, mỗi năm gia đình ông thu về cả trăm triệu đồng.
Đến thăm chuồng trại nuôi bò của ông nằm giữa ruộng lúa rộng 4 ha, chủ yếu là nuôi trong chuồng, nhưng nhờ được cung cấp thức ăn đầy đủ nên phát triển nhanh, kháng bệnh tốt; 15 con bò cái hiện đang trong thời kỳ sinh sản, đều đặn mỗi năm đẻ một lứa. Bê lai mới sinh nặng trên 25 kg, gấp rưỡi bê thường, nuôi 4 tháng là có người mua với giá từ 5 đến 6 triệu đồng/con.
Nghe ông Phương kể chuyện làm ăn thấy rất thích, nhưng để chăn nuôi đi vào ổn định ông không ít lần “nếm mùi” thất bại. Cách đây hơn 10 năm, sẵn có khu đất rộng ông dồn hết vốn liếng mua bò về nuôi. Lúc ấy đồng ruộng thiếu nước, diện tích canh tác bị bỏ hoang nhiều, nên nuôi thả rong, bò tự kiếm thức ăn.
Do đầu tư ít, nên chất lượng đàn thấp, nhưng chăn nuôi vẫn có lãi. Đến năm 2005, phong trào chăn nuôi ở địa phương phát triển mạnh, đồng thả bị thu hẹp dần, mùa khô bò thiếu thức ăn còi cọt suy giảm dần. Trong khi nhiều hộ chăn nuôi gặp khó, chưa tìm được hướng đi mới, thì ông Phương thay đổi tập quán chăn nuôi cũ, không phát triển đàn mà chú trọng tìm giống tốt nâng cao chất lượng.
Thời điểm lúc bấy giờ huyện Ninh Hải (nay là Thuận Bắc) triển khai Chương trình sind hóa đàn bò, không bỏ lỡ cơ hội, ông Phương liên hệ với cán bộ kỹ thuật nông nghiệp đưa bò cái đi thụ tinh nhân tạo, cho ra thế hệ bê lai có ưu điểm vượt trội so với bê địa phương.
Để duy trì giống tốt, ông cải tạo chuồng, nuôi theo hình thức bán thâm canh. Theo ông Phương, nếu nuôi theo hình thức quảng canh như trước đây khó gầy được giống tốt vì bò tự do giao phối dễ bị trùng huyết. Ông cải tạo 4 ha đất cằn của gia đình, đào 2 cái hồ rộng 6 sào tích trữ nước mưa trồng lúa, trồng cỏ làm thức ăn cho bò.
Hai năm trở lại đây, khi nước thủy lợi về đến ruộng, mỗi năm ông sản xuất 3 vụ lúa, năng suất đạt 6 tấn/ha; 5 sào cỏ voi, rau muống xanh tốt quanh năm đảm bảo cung cấp thức ăn dồi dào cho đàn bò cái 15 con.
Ông dự tính thu hoạch xong vụ lúa đông - xuân 2012-2013 sẽ sửa sang chuồng trại, mắc mùng cho bò tránh ruồi, muỗi đốt. “Tui tính sơ bộ tiền mua vải mùng bao quanh dãy chuồng rộng 200 m2 hết trên dưới 10 triệu đồng, bán vài con bò giống dư sức làm”, ông Phương nói. Nếu “dự án” trên được thực hiện, thì ông cũng là người đầu tiên trong tỉnh “cho bò ngủ mùng”.
Có thể bạn quan tâm

Năm 2012 là một năm đầy khó khăn của các hợp tác xã (HTX) nghêu. Đầu năm 2011, nghêu con và nghêu thịt tại nhiều HTX chết hàng loạt, ở các HTX Tân Thủy, An Thủy (Ba Tri - Bến Tre), tỷ lệ nghêu chết đến 90% nên sản lượng khai thác năm 2012 rất thấp.

"Trước kia gia đình anh Thủy là một trong những hộ nghèo nhất xã. Nhưng từ ngày anh nuôi chim bồ câu, lợn, gia đình anh trở thành hộ có thu nhập khá trong xã" - ông Lê Thanh Sơn - Chủ tịch Hội ND xã Yên Thành, huyện Yên Mô, Ninh Bình, cho biết.

Với 17 ha cao su, 3 ha luồng, đàn gia súc, gia cầm hàng trăm con, tạo công ăn việc làm cho 15 - 20 lao động địa phương; trừ chi phí mỗi năm thu lãi hơn 1 tỷ đồng. Đó là mô hình kinh tế trang trại của chàng trai người dân tộc Mường - Quách Văn Tùng, SN 1983 tại thôn 10, xã Ngọc Liên, huyện Ngọc Lặc (Thanh Hóa).

Đầu tháng 3/2000, Phòng NN - PTNN Thành phố phối hợp với Tổng đại lý phân phối BRF-02 AQUAKIT đã tổ chức hội thảo với hơn 80 hộ nuôi tôm ở Quy Nhơn về các mô hình nuôi tôm thí điểm dùng chế phẩm BRF-02 AQUAKIT. Đa số những người tham dự hội thảo đều nhất trí cho rằng với chế phẩm BRF-02 AQUAKIT, nghề nuôi tôm ở Quy Nhơn đang có một triển vọng rất khả quan.

Trên khu đồng trũng, cấy lúa quanh năm mất mùa, gia đình anh Nguyễn Văn Trực và chị Vũ Thị Vụ, thôn 3, xã Vạn Thái, huyện Ứng Hòa (Hà Nội) đã mạnh dạn nhận xin dồn đổi ruộng làm trang trại. Đến nay, trang trại nuôi vịt, lợn kết hợp thả cá của gia đình anh Trực cho thu nhập 500 - 600 triệu đồng mỗi năm.