Nuôi Tôm Thẻ Chân Trắng Mật Độ Cao

Giống như khi nuôi tôm sú, nuôi tôm thẻ chân trắng cũng không phải là một ngoại lệ. Sau những thành công bước đầu, tay nghề được nâng lên, người nuôi thường có xu hướng tăng dần mật độ nuôi từ 100 con / m2 lên 150-200 con / m2. Trong năm vừa qua có những ông chủ đã thử nuôi mật độ 400 - 500 con / m2 (Hoành Bồ, Quảng Ninh).
Chuẩn bị cho vụ nuôi đầu tiên của năm mới 2012, một chủ đề đang được các nhà đầu tư và hộ nuôi tôm quy mô nhỏ quan tâm thảo luận trong thời gian vừa qua đó là sự chuyển dịch từ nuôi tôm sú qua nuôi tôm thẻ chân trắng và hiệu quả của việc chuyển đổi này.
Hệ thống ao hồ, trang thiết bị hoàn chỉnh, con giống sạch bệnh, công nghệ nuôi tiên tiến cùng với đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm trong và ngoài nước phần nào làm yên tâm các nhà đầu tư lớn khi họ nuôi trên hệ thống ao có lót bạt nilon, có ao trữ, ao lắng, hệ thống quạt nước, sục khí đáy và kiểm tra, theo dõi hàng ngày các thông số môi trường chất lượng nước.
Trong khi đó những người nuôi quy mô nhỏ, tập trung dạng nuôi quảng canh cải tiến, bán công nghiệp sau khi đầu tư thêm một số thiết bị và cải tạo lại ao hồ lên nuôi mật độ cao, tuy nhiên do ao liền ao, bờ liền bờ giữa các hộ nuôi với nhau thì việc nuôi tôm thẻ chân trắng mật độ từ 100 con/m2 trở lên sẽ gặp trở ngại như: tôm chậm lớn, kích cỡ không đồng đều đến khi thu hoạch, dịch bệnh dễ xảy ra...
Với các ao hồ được đầu tư tốt, khu nuôi riêng biệt, sau mỗi vụ nuôi ngoài việc cải tạo tốt ao nuôi còn phải sên vét đường cấp nước và đường xả thoát nước.
Một điều tưởng chừng như bình thường nhưng rất quan trọng và không thể thiếu trong quá trình nuôi tôm thẻ chân trắng là luôn làm sạch đáy ao. Khi nuôi tôm sú, người nuôi có thể xi phông đáy theo định kỳ. Nhưng khi nuôi tôm thẻ chân trắng mật độ cao, mỗi tuần (thậm chí mỗi ngày khi tôm lớn) người nuôi phải xả cặn bã đáy ao tại các vị trí thu gom hoặc bơm hút cặn sang các ao trữ để xử lý.
Hệ thống ao nuôi là yếu tố rất quan trọng quyết định sự thành bại khi nâng mật độ nuôi cao. Việc nâng cấp ao hồ từ nuôi tôm sú qua nuôi tôm thẻ chân trắng mật độ cao cũng cần phải chú trọng về độ sâu của mực nước ao nuôi. Đây cũng được xem như là ưu tiên số một khi cải tạo ao hồ. Đối với các ao nuôi trải bạt toàn bộ đáy ao, độ sâu mực nước thích hợp cho nuôi mật độ cao là 1,5-2m.
Ngược lại, với các ao nổi, vùng thấp triều thường có độ sâu mực nước thấp hơn (0,8-1,2m) sẽ là thách thức không nhỏ khi nuôi mật độ trên 100 con/m2.
Nhiều người nuôi đã đầu tư những hệ thống ao hồ thực sự bài bản như: làm lưới nhà lầu tạo điều kiện cho tôm đeo bám, hệ thống oxy đáy, hệ thống quạt, phủ lưới che chim cò toàn bộ ao nuôi.
Việc theo dõi nhiệt độ, pH, độ kiềm, độc tố…cũng được người nuôi chú trọng.
Nhắm đến kết quả là tỉ lệ sống cao, kích cỡ tôm đồng đều, ít bệnh, thời gian thu hoạch ngắn, năng suất cao khi nuôi tôm thẻ chân trắng mật độ cao từ 150-200 con/m2 trên hệ thống ao nuôi tôm sú trước đây, Việt Linh khuyến nghị một số vấn đề kỹ thuật như sau:
- Ao nuôi nên trải bạt toàn bộ hoặc phủ bạt bờ ao.
- Bảo đảm mực nước ao nuôi từ 1,5-2m.
- Khu vực nuôi có nguồn nước dồi dào
- Có ao trữ, ao lắng và hệ thống cấp thoát nước đáp ứng yêu cầu xả mùn bã đáy ao (xi phông đáy) mỗi ngày.
- Có hệ thống oxy đáy; hệ thống quạt nước tạo được các khu vực gom mùn bã đáy ao. Bảo đảm từ tháng thứ 2, thời gian quạt nước 24g/24g.
- Nếu không thỏa mãn các yêu cầu trên, nên nuôi dạng bán công nghiệp
- Về con giống: Chỉ nuôi mật độ cao khi chọn được con giống sạch bệnh.
- Trong quá trình nuôi, các biểu hiện của ao nuôi không dễ nhận biết nên đòi hỏi người nuôi phải bám sát để phát hiện và xử lý kịp thời.
Có thể bạn quan tâm

Thời gian gần đây, hoạt động nuôi tôm phát triển mạnh theo hướng tự phát đã kéo theo sực bùng phát dịch bệnh, môi trường bị suy thoái và ô nhiễm do nuôi tôm với mật độ quá cao, sử dụng kháng sinh và hóa chất với liều cao...

Sau một thời gian dài đối mặt triền miên với dịch bệnh, hàng loạt đầm tôm công nghiệp của người dân trên địa bàn huyện Đầm Dơi (Cà Mau) bỏ trống. Thế nhưng, những tháng gần đây nuôi tôm công nghiệp có dấu hiệu phục hồi trở lại khi quy trình sản xuất cũ được thay đổi bằng quy trình nuôi mới an toàn, đạt chất lượng, hiệu quả cao. Đây thật sự là một tín hiệu vui không chỉ cho nông dân mà còn cho nền kinh tế của huyện.

Gần đây tại Thái Lan (2012), hội chứng đó đã được báo cáo có ảnh hưởng đến trại tôm phía Đông và các tỉnh thành phía Nam vịnh Thái Lan.

Theo Chi cục Nuôi trồng thủy sản Quảng Nam, kết quả kiểm tra môi trường nước và bệnh trên tôm nuôi gần đây cho thấy, vi khuẩn Vibrio có mặt ở hầu hết các mẫu nước sông và mẫu nước ao nuôi, khi hàm lượng oxy trong ao thấp, tôm sẽ ăn ít hoặc ăn chậm dẫn đến dư thừa thức ăn trong ao, tích tụ khí độc… Các yếu tố này tác động ngược trở lại tôm nuôi, làm tôm yếu dần và dễ nhiễm các loại bệnh do vi khuẩn Vibrio gây ra, đặc biệt là bệnh phân trắng, bệnh hoại gan tụy cấp làm tôm chết rải rác đến hàng loạt ở một số ao nuôi trên địa bàn tỉnh. Chi cục Nuôi trồng thủy sản Quảng Nam khuyến cáo người nuôi cần xác định rõ nguyên nhân và có biện pháp trị bệnh thích hợp cho tôm nuôi. Khi phát hiện tôm trong ao bị nhiễm bệnh gan tụy, cần áp dụng các biện pháp sau đây: sử dụng thuốc sát trùng để xử lý nước, đảm bảo mật độ Vibrio parahaemolyticus < 400 cfu/ml; quản lý các yếu tố môi trường thích hợp, chạy quạt 24/24 giờ, tăng cường sử dụng khoáng, men vi sinh trong ao nuôi…

Phát triển các phương pháp đặc hiệu để kiểm soát dịch bệnh virút trên tôm là một nhiệm vụ cấp bách để giảm thiểu thiệt hại về kinh tế.