Nuôi Tôm Sú Quảng Canh Cải Tiến Lời 50 Triệu/ha

Mô hình nuôi tôm sú quảng canh cải tiến ở vùng bán đảo Cà Mau cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao, lợi nhuận trên mỗi hecta khoảng 50 triệu đồng. Đây cũng là thành công trong luân canh tôm - lúa. Để áp dụng thành công, theo hướng dẫn của KS. Lê Quốc Tuấn (Trung tâm khuyến nông - khuyến ngư Cà Mau), bà con nông dân lưu ý như sau.
Thiết kế ruộng nuôi đúng kỹ thuật, diện tích từ 0,5 - 1 ha, ruộng nuôi phải có ao trữ, ao lắng (có thể tận dụng mương vườn làm ao lắng). Có ao vèo hoặc khu ươm tôm giống trước khi thả ra ruộng nuôi. Bờ bao quanh ruộng nuôi 3 - 4 m, chắc, không rò rỉ nước, bờ ruộng nuôi cao hơn mực nước cao nhất trong ruộng là 0,5 m trở lên.
Mương bao xung quanh ruộng rộng 4 - 6 m, độ ngập nước 1 - 1,2 m. Làm cống, ống bọng, có thể bố trí thêm máy bơm dự phòng. Trước khi nuôi cần sên vét bùn đáy kênh mương và vệ sinh ruộng nuôi. Cắt gốc rạ gom lại thành từng gò trên mặt ruộng (cắt rạ chừa lại 10 cm). Có thể bơm cạn nước đáy mương. Bón vôi từ 500 - 1.000 kg/ha.
Phơi mặt ruộng và kênh mương trong hệ thống nuôi nứt chân chim là tốt nhất. Sau đó lấy nước vào ruộng nuôi ngập mặt ruộng 40 cm (lấy nước vào qua ao lắng và lưới lọc. Túi lọc bằng vải KT). Chú ý diệt cá tạp. Nếu độ mặn trên 15%0, dùng Saponin với liều lượng 10 - 15 kg/1.000 m3, còn nếu độ mặn dưới 15%0 thì dùng dây thuốc cá, 4 - 5 g/m3 nước.
Diệt khuẩn bằng iodine với liều lượng 1 - 2 lít/ 1.000 m3. Bón phân gây màu nước, sử dụng NPK với lượng 2 - 3 kg/1.000 m3. Cấy vi sinh, dùng D.EM với liều lượng 1 lít/2.000 m3. Sau đó kiểm tra các yếu tố môi trường nằm trong khoảng thích hợp như pH = 7,5 - 8,5, độ kiềm 80 - 160 mg/lít, độ mặn 10 - 25%0. Màu nước tốt nhất là màu xanh vỏ đậu hoặc nâu nhạt.
Thả giống, trước khi thả thuần nhiệt độ và độ mặn trong 15 - 20 phút. Con giống phải đạt chất lượng, qua xét nghiệm PCR không bị các bệnh đốm trắng, MBV, đầu vàng. Mật độ thả 5 - 8 con/m2. Tôm được vèo vây lại rong ao đất hoặc trong khu vèo (cũng được chuẩn bị tốt như ruộng nuôi) trong thời gian 10 - 15 ngày. Sau đó đưa ra ngoài ruộng nuôi bằng cách khai thông đập cho tôm ra ruộng lần lần hoặc cuốn lưới vèo hay đặt sàng chuyển tôm ra ngoài.
KS. Tuấn lưu ý, đối với tôm giai đoạn ươm ao trong vèo, có cho tôm ăn bổ sung bằng thức ăn công nghiệp, ngày cho ăn 4 lần, thức ăn hòa vào nước tạt đều khắp ao. Khi sang giai đoạn nuôi thịt trong ruộng, tháng đầu khi chuyển ra ruộng nuôi không cần cho ăn vì lượng thức ăn tự nhiên trong ruộng nuôi còn nhiều, đủ đáp ứng nhu cầu cho tôm.
Qua tháng thứ hai tiến hành cho ăn bổ sung bằng thức ăn công nghiệp, lượng thức ăn từ 2 - 5% trọng lượng tôm. Cho ăn ngày 2 lần (sáng và chiều), thức ăn cho vào sàng ăn, bố trí từ 25 - 30 sàng/ha. Sàng cho ăn được đặt đều khắp ruộng nuôi, sau khi cho thức ăn vào sàng, khoảng 2 - 3 giờ sau kiểm tra lại lượng thức ăn (dư, thiếu) để điều chỉnh phù hợp. Hàng tuần kiểm tra các yếu tố môi trường như pH, nhiệt độ, độ kiềm, NH3…
Định kỳ 15 ngày cấy vi sinh một lần (chế phẩm sinh học D.EM). Thường xuyên kiểm tra trạng thái bơi lội, hoạt động, phụ bộ… để xử lý kịp thời. Kiểm tra thức ăn sàng ăn tránh làm ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe của tôm. Sau thời gian nuôi 4 - 4,5 tháng, tôm đạt kích cỡ 30 - 40 con/kg, với tỷ lệ sống đạt 40 - 50%, năng suất sẽ đạt 800 - 900 kg/ha.
Có thể bạn quan tâm

Nuôi tôm biển là một nghề mang lại lợi nhuận lớn cho người nông dân ĐBSCL. Song những năm gần đây dịch bệnh cho tôm nuôi ở đây đã gây những tổn thất lớn cho nhiều người nuôi. Kết quả khảo sát cho thấy bệnh trên tôm sú nuôi thường xuất hiện vào tháng 2-3 hàng năm. Những bệnh chính xuất hiện trên tôm sú nuôi ở ĐBSCL gồm cả vi khuẩn (nhóm Vibrio), virus (MBV, WSSV). Chúng xuất hiện trên tất cả các mô hình nuôi: quảng canh, bán thâm canh, "tôm - lúa", nuôi công nghiệp... Tác nhân gây bùng nổ dịch bệnh trên tôm nuôi trong những năm qua, chủ yếu do mầm bệnh MBV kết hợp với một tác nhân là vi khuẩn gây bệnh.

Thường phát hiện bệnh này trong ao nuôi thả tôm mật độ cao, trong ao nuôi theo hệ thống không thay nước hoặc ít thay nước. Ammonia sẽ làm ảnh hưởng tới mang tôm làm có màu đen và nhiều khi có các chất hữu cơ hoặc vô cơ vào trong mang tôm, nếu không xử lý sẽ làm tôm nhiễm bệnh từ vi khuẩn. Bình thường bệnh đen mang xảy ra lúc tôm lớn (tôm được hai tháng rưỡi tới ba tháng trở lên).

Quy trình này quy định trình tự, nội dung và những yêu cầu kỹ thuật để nuôi thâm canh tôm sú (Penaeus monodon Fabricus 1798). Quy trình áp dụng cho các cơ sở nuôi thâm canh tôm sú trong cả nước để đạt năng suất từ 3 đến 5 tấn/ha/vụ.

Đóng rong là một bệnh chủ yếu do môi trường tạo ra trong đó các tác nhân chính là tảo, nấm, động vật nguyên sinh và vi khuẩn tác động lên nhau tạo thành bệnh. Bệnh đóng rong rất dễ nhận biết, toàn thân bị dơ, tập trung ở phần đầu ngực hay toàn thân, mang và các phụ bộ. Tôm bị bệnh này rất yếu, bỏ ăn, ít di chuyển và cặp mé bờ, đồng thời mang thường bị tổn thương hoặc biến đổi màu sắc

Nuôi tôm, nuôi trồng thuỷ sản là một công việc đầy rủi ro, đặc biệt là nuôi tôm đang được phát triển theo hướng tăng diện tích, loại hình nuôi và mức độ thâm canh. Bên canh sự hấp dẫn về lợi nhuận cao, nuôi trồng thuỷ sản gặp nhiều khó khăn về môi trường và dịch bệnh, đặc biệt là ở các khu nuôi tập trung