Nuôi Sá Sùng Ở Cam Lâm Người Dân Chưa Mặn Mà
Theo một số hộ dân ở Cam Lâm (Khánh Hòa), nuôi sá sùng kết hợp với một vài đối tượng khác trong ao không mất nhiều công chăm sóc và chi phí, lại có thêm thu nhập. Tuy nhiên, họ chưa mặn mà bởi không chủ động được khâu thu hoạch...
Hiệu quả kinh tế
Nhớ lại 7 năm trước, khi ao nuôi tự nhiên xuất hiện sá sùng, ông Nguyễn Văn Bần (tổ dân phố Tân Hải, thị trấn Cam Đức) cho biết: “Hồi đó, trong thôn chưa ai biết nuôi sá sùng, cũng chẳng biết cách ăn, còn nghĩ sá sùng làm ô nhiễm ao nuôi! Vì thế, tôi phải thuê người đào rồi cho không! Vài năm sau mới biết lợi ích của sá sùng, lúc đó tôi thuê đào bán, rồi mua thêm giống về thả”.
Đợt thu hoạch vừa qua, với 3.000m2 ao nuôi, ông Bần thu hơn 70kg sá sùng, bán được 17 triệu đồng. Với 2 vụ nuôi/năm, cộng cả cua, tôm sú, cá dìa, năm ngoái, ông thu lãi tổng cộng 50 triệu đồng, riêng sá sùng lãi 30 triệu đồng. Theo ông Bần, sá sùng nuôi kết hợp không vất vả, không tốn thức ăn, thuốc bệnh, chỉ phải chú ý thay nước ao nuôi.
Ông Đỗ Lập, 1 trong 3 hộ tham gia chương trình thí điểm nuôi sá sùng tại thị trấn Cam Đức của Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III cũng thừa nhận, nuôi sá sùng kết hợp tuy không trúng lớn nhưng nhàn và chắc ăn hơn nuôi gà, heo, thích hợp để xóa đói giảm nghèo.
Năm 2013, với diện tích 5.800m2 ao nuôi, trong đó có 2 ô (600m2) được hỗ trợ 30.000 con giống theo chương trình, ông Lập thu lãi 38 triệu đồng, chưa tính nguồn thu từ cá dìa, tôm sú. Theo kinh nghiệm của ông, nếu đáy ao xuất hiện sá sùng tự nhiên thì thả thêm con giống chắc chắn phát triển tốt.
Bên cạnh đó, nhất định phải nuôi sá sùng kết hợp với 1 - 2 giống khác. “Em trai tôi còn khá hơn, có năm thu tới 200kg! Nhưng khá nhất là hộ anh Dũng (tổ dân phố Bãi Giếng Trung), vụ vừa rồi thu 70 - 80 triệu đồng (ao hơn 4.000m2)”, ông Lập cho hay.
Vướng khâu thu hoạch
Khó khăn nhất của người nuôi sá sùng ở Cam Lâm là bên cạnh phụ thuộc giá vào đầu nậu, họ đều không tự thu hoạch được sá sùng nên phải chi phí đáng kể cho khoản tiền công thu hoạch.
Như ông Bần vừa bán cho đầu nậu 190.000 đồng/kg sá sùng (loại 80 - 130 con/kg), nhưng phải trừ lại 60.000 đồng/kg công đào, chỉ thực hưởng 130.000 đồng/kg. Sá sùng quá cỡ chỉ được đầu nậu trả 100.000 đồng/kg, còn trừ một nửa tiền công đào.
Ông Bần đã thử học để tự đào sá sùng, nhưng sá sùng vẫn bị eo (mình thắt lại) nên đầu nậu không thu. Một đầu nậu giải thích, sá sùng bị eo chỉ sống được không quá 24 giờ, còn sá sùng đạt chuẩn có thể sống hàng tuần, đủ thời gian vận chuyển xuất khẩu.
Ông Bần cũng đã thử phơi khô nhưng do không biết cách lộn sá sùng để vệ sinh nên khi sá sùng quắt lại, tỷ lệ hao hụt cao. Ngoài ra, đào sá sùng cần nhanh, phải huy động 5 - 12 người có độ lành nghề ngang nhau nên rất khó tận dụng người nhà.
Chị Hoàng Thị Dung, khuyến nông viên thị trấn Cam Đức thừa nhận, Tân Hải là địa phương tập trung người nuôi sá sùng nhiều nhất Cam Đức (hơn chục hộ), nhưng người nuôi nơi đây chưa mặn mà bởi không chủ động được khâu thu hoạch.
Theo bà Nguyễn Thị Nhặn - Phó Trưởng trạm Khuyến công - nông - lâm - ngư huyện, trên cùng diện tích mặt nước, so với thả nuôi 1 đối tượng, nuôi sá sùng kết hợp vừa không tốn chi phí nuôi, lại góp phần làm sạch môi trường nước, giảm dịch bệnh trong ao...
Đây là chu trình nuôi khép kín, các đối tượng nuôi không cạnh tranh lẫn nhau, bởi sá sùng là giống sống ở đáy ao, ăn chất thải từ các loài khác. Tuy nhiên, ao đìa nuôi sá sùng phải có chất đáy đạt tỷ lệ cát/bùn ngang nhau. Hiện nay, người nuôi chỉ dựa vào kinh nghiệm đơn giản: Ao nào có sá sùng tự nhiên xuất hiện thì thả nuôi thêm sá sùng giống.
Trạm đã nắm bắt được khó khăn của người nuôi sá sùng nhưng hiện chưa hỗ trợ được bởi cán bộ Trạm cũng chưa được hỗ trợ tài liệu hay tập huấn cách thu hoạch. 2 tháng nay, Trạm triển khai thí điểm mô hình nuôi kết hợp sá sùng với cá dìa, tôm sú tại xã Cam Thành Bắc, mỗi năm chọn 1 hộ thí điểm nuôi (trong 2 năm), hỗ trợ 50% con giống với kinh phí 9,5 triệu đồng/hộ. Sau khi sơ kết, Trạm mới có đánh giá cụ thể và hướng tháo gỡ.
Được biết, các hộ nuôi đang có xu hướng chuyển sang nuôi sá sùng quá cỡ vì tuy giá thu mua thấp nhưng do nặng gấp 4 lần sá sùng đạt chuẩn nên sá sùng quá cỡ vẫn cho thu nhập cao hơn.
Cam Lâm hiện có khoảng 30 - 50 hộ nuôi sá sùng, tập trung chủ yếu ở Cam Đức, ngoài ra còn ở Cam Thành Bắc, Cam Hải Đông. Từ năm 2013, 3 hộ dân ở Cam Đức đã tham gia chương trình thí điểm nuôi sá sùng của Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III. Ước tính, với 300m2 ao nuôi, người nuôi lãi 15 - 20 triệu đồng/vụ.
Có thể bạn quan tâm
Phát hiện 4 cơ sở vi phạm trong sản xuất kinh doanh giống mắc ca Theo thông tin từ Sở Nông nghiệp và PTNT, thực hiện Công văn số 1240/UBND-NL của UBND tỉnh về việc kiểm tra việc gieo ươm giống mắc ca của Công ty TNHH Giống cây trồng VinaMacca Đức Anh Gia Lai. Sở Nông nghiệp và PTNT đã ra Quyết định số 277/QĐ-SNN thành lập đoàn thanh tra tình hình sản xuất, kinh doanh giống cây mắc ca trên địa bàn tỉnh.
Lại chuyện cây giống kém chất lượng Nhiều hộ dân tại xã Bờ Ngoong (huyện Chư Sê) mua và trồng giống cây bơ Booth do Viện Ea Kmat (có trụ sở tại Đak Lak) cung cấp đã bị chết hàng loạt. Một số ít cây còn sống đều phát triển còi cọc.
Vi phạm sản xuất giống cây trồng có thể bị phạt 100 triệu đồng Nhằm đảm bảo việc sản xuất, kinh doanh cây trồng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang dự thảo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giống cây trồng, bảo vệ và kiểm dịch thực vật. Trong đó, mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân vi phạm là 50 triệu đồng, đối với tổ chức mức phạt được tăng gấp đôi (100 triệu đồng).
Gấp rút nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành mía đường Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Cao Đức Phát khẳng định rằng so với các loại cây trồng khác, mía đường vẫn là ngành được bảo hộ cao nhất; phải gấp rút thực hiện giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh ngành mía đường.
Đẩy mạnh công tác khuyến nông trong thực hiện tái cơ cấu ngành Nông nghiệp Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp là nội dung quan trọng, cốt lõi trong tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế và xây dựng NTM của tỉnh nhằm xây dựng, phát triển nền nông nghiệp hàng hóa hiệu quả và bền vững với năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cao, góp phần quan trọng nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho dân cư nông thôn.