Nuôi rạm trong ruộng lúa

Rạm là loài giáp xác đặc trưng của vùng nước lợ. Rạm cùng loài với cua nhưng nhỏ hơn cua đồng, vỏ mỏng hơn, mình dẹp và tính “hiền” hơn cua đồng. Rạm có giá trị dinh dưỡng cao, được người sành ăn ưa chuộng hơn cua đồng vì nhiều gạch, thịt ngọt và béo, vỏ lại mềm.
Ông Lâu kể, trước đây vùng cửa sông này rạm nhiều vô kể. Rạm đồng thường ra các khu rừng sú vẹt để sinh đẻ. Đến khi những chú rạm con to bằng đầu que diêm (dân gian gọi là con cốm) thì cốm lại vào đồng, tìm ruộng vừa gặt còn nguyên gốc rạ để chui vào ống rạ sống.
Cứ đến mùa sinh sản, nhất là khoảng ngày rằm, mồng một tháng 4, tháng 5 âm lịch, rạm cặp đôi, kết thành bè, rủ nhau ra cửa sông. Vào những dịp ấy, với những chiếc lờ, đó, vợt, có ngày gia đình ông bắt được hàng tấn rạm trưởng thành. Rồi rạm ít dần vì người đồng ruộng ngày càng nhiều thuốc trừ sâu.
Ruộng lúa, nơi lý tưởng nuôi rạm
Với kinh nghiệm của một lão nông suốt đời gắn bó với vùng cửa sông nước lợ này, ông Lâu bắt đầu mua cốm (rạm con) về nuôi trong ruộng lúa.
Các ruộng nuôi được bố trí thành một dải dài bên ngoài đê, áp sông Văn Úc, thuận lợi cho việc cung cấp nước trong quá trình nuôi. Hằng năm, trên diện tích này, gia đình ông Lâu luân phiên một vụ cấy lúa, một vụ nuôi rạm.
Sau khi gặt, gốc rạ sẽ trở thành chỗ trú lý tưởng cho rạm sinh sống và tránh nguy hiểm. Bởi quá trình sinh trưởng của rạm phải trải qua 4 - 5 lần lột vỏ, khi lột, con rạm mềm và thơm trở thành mồi ngon cho các loại cá dữ.
Ông chỉ chọn duy nhất giống lúa nếp Thái Bình. Giống này thân to, sinh trưởng khỏe, cứng cây. Vì thế, sau mùa gặt, gốc rạ sẽ là chỗ trú tốt cho rạm.
Sau vụ gặt, ông bắt đầu cải tạo ruộng, chuẩn bị ao nuôi. Trước hết, ruộng được bơm cạn nước, rắc vôi bột với liều lượng 7 -10 kg/100 m2. Vôi rải khắp khu vực ương rạm và xung quanh bờ. Chất đáy ao là bùn pha cát dày 15 - 20 cm, không bị chua phèn. Phơi đáy ao từ 3 - 4 ngày rồi lấy nước vào ruộng qua lưới lọc nhằm hạn chế cá tạp, cá dữ vào khu vực nuôi. Sau đó bón phân gây màu nước liều lượng 30 - 40 kg/100m2, phân chuồng được ủ mục và rải đều khắp đáy ao.
Độ sâu mực nước trong ao duy trì từ 0,5 - 1,5 m. Ông Lâu chia sẻ: “Ao nuôi rạm vừa cần có chỗ nông khoảng 30 - 50 cm, vừa cần có nơi sâu đến 1,5 m. Rạm chỉ lột vỏ ở chỗ nước nông, nhưng quá trình sinh sống, rạm lại thích những hang hốc sâu dưới nước”.
Ngoài ra, ao phải có hệ thống bờ bao quanh chắc chắn, không bị rò rỉ để rạm không bò ra ngoài. Con giống ông mua từ những người đơm lờ ở khắp các vùng rừng ngập mặn ven cửa sông, với giá khoảng 70.000 đ/kg. Khi đó, rạm nhỏ bằng đầu que diêm, khoảng 200 con/kg. Cứ mỗi kg, ông cẩn thận lọc chọn được 400 - 500 gr con giống tốt, tức là đồng đều, khỏe mạnh, nhanh nhẹn.
Chọn lúc sáng sớm, trời mát mẻ, không mưa, ông thả giống xuống ao với mật độ khoảng 20 con/m2. Trên 9 mẫu ao, ông thả tổng cộng gần 1 tấn con giống, chia thành nhiều đợt để thu rải vụ. Loài dễ nuôi
Thức ăn cho rạm là cá biển tươi xay nhỏ, trộn với cám và men vi sinh, ủ 3 - 5 ngày. “Cá tươi là món ăn tốt nhất cho rạm. Ở đây gần cửa sông, gần bến tàu cá nên tôi thường liên hệ những tàu cá xa bờ mới về bến để mua cá tươi với số lượng lớn, giá lại rẻ - ông Lâu nói - Nhưng nếu không tiện mua cá biển thì ta cũng có thể tận dụng cá tạp hay ốc bươu vàng… xay nhỏ rồi trộn cám cho rạm ăn cũng rất tốt”.
Rạm được cho ăn ngày 2 lần vào sáng sớm và chiều tối. Về quản lý ao nuôi, theo ông Lâu, cần định kì bón vôi liều lượng 2 - 3 kg/100 m2 mỗi tháng 2 lần nhằm ổn định pH, định kì bón phân chuồng ủ mục tạo màu nước làm thức ăn tự nhiên cho rạm.
Ông Sinh cũng cho biết, con giống hiện phụ thuộc hoàn toàn vào việc thu gom từ tự nhiên nên cỡ giống không đồng đều, tỷ lệ sống không cao, lại phải mua nhiều đợt mới đủ số lượng giống. Vì thế, rất cần nghiên cứu cho sinh sản nhân tạo để chủ động nguồn giống cung cấp cho người nuôi.
Ông Lâu kể: “Ruộng nuôi nhà tôi gần sông Văn Úc, nước ra vào thường xuyên nên không phải mất công thay nước. Hằng ngày, tôi thăm ruộng nuôi, kiểm tra lượng thức ăn thừa thiếu để điều chỉnh phù hợp, tránh để rạm đói hoặc thừa thức ăn gây ô nhiễm ao”.
Có một điều đặc biệt là rạm nhà ông Lâu chưa bao giờ bị dịch bệnh. Tuy thế, ông vẫn chú trọng phòng bệnh cho rạm bằng cách trộn thuốc Tiên đắc vào thức ăn của rạm, bổ sung vitamin C mỗi tháng một lần trong 3 ngày liên tục để tăng sức đề kháng cho rạm.
Nói về kinh nghiệm nuôi rạm, ông Lâu cho biết, môi trường nuôi rạm phải sạch, vùng nuôi cần tách biệt với đồng ruộng để tránh thuốc trừ sâu. “Nếu ruộng nhà mình nuôi rạm mà ruộng bên cạnh phun thuốc trừ sâu thì thuốc ngấm vào đất lan sang ruộng nhà mình, rạm cũng chết hết”.
Sau khoảng 4 tháng nuôi, rạm đạt cỡ thương phẩm (40 - 50 con/kg) thì có thể thu hoạch. Nhờ thả giống nhiều đợt nên ông có thể thu hoạch rải vụ trong vòng 3 tháng. Mỗi tháng chỉ có hai đợt thu hoạch là 2 - 3 ngày quanh ngày rằm và mùng một âm lịch.
Vào hai thời điểm đó, những con rạm trưởng thành, tức gạch, thịt vào chắc bắt đầu nổi lên mặt nước (nông dân vẫn gọi là ngày “rạm trôi” hay “rạm bay”). Thương lái đến mua tận ao với giá dao động từ 130.000 - 150.000 đ/kg.
Với năng suất đạt gần 2,5 tấn/ha, gia đình ông Lâu thu lãi gần 350 triệu đồng từ 9 mẫu (32.400 m2) ao nuôi.
Ông Nguyễn Sỹ Sinh, Trạm trưởng Trạm KN-KN huyện Kiến Thụy đánh giá, rạm là đối tượng dễ nuôi, phù hợp với các bãi bồi ven sông, chân đê. Huyện Kiến Thụy hiện có một số hộ áp dụng mô hình này, mang lại hiệu quả kinh tế cao.
“Các khu nuôi thường là những vùng bãi ven sông ven biển do nông dân khai hoang phục hóa, chúng tôi rất mong các ngành chức năng có kế hoạch giao đất lâu dài cho nông dân để họ yên tâm đầu tư mở rộng sản xuất”, ông Sinh chia sẻ.
Có thể bạn quan tâm

Giá cao, lợi nhuận nhiều nên thời gian qua, nhiều hộ dân huyện Trà Ôn (Vĩnh Long) đã ồ ạt lên liếp để trồng cam. Giờ đây, huyện Trà Ôn đã đứng đầu về diện tích cam trong tỉnh. Tuy nhiên, theo ngành chức năng của địa phương, cách trồng của người dân chưa bền vững.

Qua 10 năm, ngành nông nghiệp khu vực Nam bộ triển khai thực hiện mô hình “Thực hành nông nghiệp tốt theo tiêu chuẩn GAP” thì đến nay mới có 29 mô hình được chứng nhận. Và tất cả những mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn GAP đã đạt thì vẫn chưa thể nhân rộng.

Cuối tháng 3, ông Trần Văn Thanh ở thôn Vân Quật (xã Duy Thành, huyện Duy Xuyên) mua hạt giống đậu xanh về tỉa trên một sào đất nằm ven vườn nhà. Nhờ nguồn nước tưới dồi dào, chủ động phòng trừ các loại sâu bệnh nguy hiểm nên ruộng đậu xanh của ông Thanh phát triển rất tốt.

Tuy nhiên, do yếu tố thời tiết, giá giống cao su tăng cao, giá mủ cao su xuống thấp, không tiêu thụ được, khiến nhiều hộ dân hoang mang, không tiếp tục trồng, nên tiến độ trồng mới chậm so với kế hoạch đề ra. Tính đến cuối tháng 7, toàn huyện mới trồng được 21,6 ha, đạt 6,2% kế hoạch, tập trung ở các xã: Lương Sơn 10,4 ha, Xuân Thắng 6 ha, Xuân Cẩm 4,2 ha và Thọ Thanh 1 ha.

Câu chuyện bắt đầu khi xã Vạn Ninh cùng với các địa phương khác trong huyện Quảng Ninh (Quảng Bình) khởi động phong trào xây dựng nông thôn mới. Với địa hình bán sơn địa có nhiều lợi thế để phát triển chăn nuôi kết hợp trồng rừng, xã Vạn Ninh khuyến khích nhân dân tập trung vào các mô hình kinh tế trang trại với nhiều chính sách ưu đãi, trong đó định hướng đến vấn đề quy hoạch tập trung, thân thiện với môi trường và xa khu dân cư.