Nuôi cá totoaba thu lợi cao

Đặc điểm sinh học
Totoaba macdonaldi thuộc họ cá lù đù (Sciaenidae), có kích thước lớn nhất trong họ cá này. Chúng có thể đạt trọng lượng trên 100 kg với chiều dài 2 m, tuổi thọ trung bình 25 năm. Totoaba có thân bầu dục dài, hơi dẹt hai bên, đầu to, vây lưng chia hai đoạn: đoạn trước có tia gai cứng, đoạn sau mềm. Răng của cá nhỏ, bóng hơi lớn, dày. Cá nhiều thịt, ít xương, phần đuôi có rất nhiều mỡ.
Totoaba trưởng thành sống gần bờ, rất tạp ăn, thức ăn chủ yếu của chúng là cua lớn, cá mòi. Cá totoaba non thường ăn các loài cá đáy nhỏ, giáp xác, tôm, cua. Totoaba là loại cá bản địa đặc trưng của vùng vịnh California, Mexico. Chúng hiếm khi sinh sống ở những nơi khác.
Totoaba non sống chủ yếu dưới độ sâu 23 m ở vùng vịnh California, có màu xanh ánh bạc và đốm nhỏ trên lưng. Sau 4 năm (với con cái) và 5 năm (với con đực), totoaba non mới có thể tiến hành sinh sản.
Phục hồi trữ lượng tự nhiên
Chương trình nhân giống và nuôi cá totoaba do Chính phủ Mexico thiết lập ở Ensenada, Baja California, Mexico cách đây 20 năm đã giúp phục hồi trữ lượng cá tự nhiên, đồng thời góp phần quản lý thành công cá bố mẹ và sản xuất cá giống. Ngày nay, nhiều doanh nghiệp rất quan tâm hoạt động nuôi cá totoaba do đây là loài cá lớn nhanh, lợi cao. Fillet cá totoaba được ưa chuộng ở Mexico và nhiều thị trường quốc tế, riêng bong bóng cá totoaba còn là mặt hàng có giá trị kinh tế rất cao tại châu Á.
Chương trình gần đây của Chính phủ Mexico còn mở rộng nghiên cứu nuôi cá trong phòng thí nghiệm, tại Trung tâm Sinh sản cá biển của bang Sonora, vịnh Kino. Trung tâm này đã nghiên cứu thành công quy trình sinh sản và nuôi ấu trùng cá totoaba. Chính quyền bang Sonora và Chính phủ Mexico cho phép cơ quan nghiên cứu bắt cá totoaba tự nhiên ở vùng vịnh California, cho chúng thích nghi dần với môi trường phòng thí nghiệm, sau đó cho sinh sản sau 1 năm nuôi bằng chế độ dinh dưỡng hợp lý. Đây là lần đầu tiên cá totoaba được sinh sản thành công trong phòng thí nghiệm, mở ra triển vọng mới cho chương trình nhân giống cá. Bên cạnh đó, nhiều dự án nuôi cá totoaba thử nghiệm trong các lồng trên biển gần Ensennada, phía tây biển Thái Bình Dương, hoặc ở ngay trong vịnh California gần La Paz, Baja California Sur ở Guaymas, Sonora cũng diễn ra suốt 3 năm qua.
Nguồn thức ăn bền vững
Các nhà khoa học thuộc Trung tâm Nghiên cứu Khoa học kỹ thuật, đại học Sonora; đại học Baja California, Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Ensennada (CICESE) và CREMES tại Mexico không ngừng nỗ lực phát triển công thức thức ăn đủ dưỡng chất và bền vững cho cá totoaba. Họ đã tiến hành thí nghiệm trên 120 cá bột cỡ 74,7+-5,3 g trong vòng 8 tuần để tìm ra nhu cầu protein thực sự của cá. Nghiệm thức thức ăn có mức lipis là 8% chất béo thô, 47,52 và 55% protein thô. Hệ số thức ăn được điều chỉnh hai tuần một lần, cung cấp 5% vi sinh hằng ngày. Khẩu phần ăn được chia đều theo các giờ trong ngày: 9 h, 14 h, 19 h. Tỷ lệ ôxy hòa tan được duy trì trên 5 mg/l. Nhiệt độ, nồng độ muối và độ pH lần lượt là 28,40C, 38 ppt và 7,8. Theo dõi, trọng lượng cá tăng mỗi ngày 2,1 – 2,3 g, hệ số biển đổi thức ăn 2.2. Như vậy, tỷ lệ cá sống sót đạt trên 97%.
Hiện, totoaba là loài thủy sản được ưu tiên tập trung nghiên cứu nuôi tại Mexico. Chính phủ nước này cùng các trung tâm nuôi trồng thủy sản đang nỗ lực thiết lập ngành công nghiệp cá totoaba. Mexico hy vọng, ngành công nghiệp cá totoaba sẽ sớm phát triển vững mạnh, không phải lệ thuộc vào trữ lượng cá giống tự nhiên.
Tags: nuoi ca totoaba, ky thuat nuoi ca totoaba, nuoi ca, nuoi trong thuy san
Có thể bạn quan tâm

Khác với động vật trên cạn cá là loại sống dưới nước do đó việc kiểm tra và phát hiện bệnh gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy việc duy trì sức khỏe tốt cho cá rất quan trọng để nuôi cá đạt hiệu quả cao. Cho nên vào mùa mưa, thời tiết thay đổi đột ngột làm ảnh hưởng đến các yếu tố môi trường dễ làm cho cá bị sốc, khi đó các tác nhân gây bệnh có điều kiện phát triển và xâm nhập vào cơ thể cá.

Những năm qua, mô hình luân canh nuôi cá bống kèo với tôm nước lợ thâm canh hay bán thâm canh để cắt mầm bệnh trong nuôi tôm là không mới. Tuy nhiên, bên cạnh một số hộ nuôi cá kèo mang lại hiệu quả cao thì còn nhiều hộ nuôi thất bại do không am tường kỹ thuật nuôi đối tượng này.

Vôi là một trong những chất dùng để xử lý môi trường khá rẻ tiền, có nhiều tác dụng và hiệu quả cũng rất cao, được khuyến cáo sử dụng rộng rãi để cải tạo ao đầm nuôi tôm cá.

Hiện nay với xu hướng thâm canh trong nghề nuôi thủy sản thì bệnh cá xảy ra trong quá trình nuôi - nhất là vào giai đoạn chuyển mùa là điều khó tránh khỏi và nó cũng đã gây ra nhiều tổn thất cho người nuôi. Để góp phần hạn chế tối đa thiệt hại có thể xảy ra do cá bệnh, người nuôi cần thực hiện tốt các giải pháp kỹ thuật để phòng bệnh cho cá trong giai đoạn chuyển mùa.

Rong đáy phát triển trong ao nuôi tôm sẽ gây nên tình trạng thiếu oxy, biến động các yếu tố môi trường…, từ đó ảnh hưởng xấu đến tôm nuôi trong ao. Tuy nhiên, việc xử lý rong phát triển dưới đáy ao nuôi tôm là không đơn giản và nếu xử lý không đúng cách cũng khiến tôm nuôi bị sốc, yếu dẫn đến phát bệnh.