Nuôi Cá Lồng, Bè Phát Triển Tại Tuyên Quang

Tuyên Quang có gần 12.000 ha mặt nước nuôi trồng thủy sản, trong đó có 8000 ha hồ thủy điện Na Hang có thể nuôi cá lồng, bè và nuôi cá eo nghách. Ngoài ra Tuyên Quang còn có hàng trăm km sông, suối chảy qua địa bàn tỉnh có thể tận dụng để phát triển nuôi thủy sản, 698 ha ruộng trũng cấy lúa kém hiệu quả có thể chuyển đổi sang nuôi thủy sản hoặc nuôi 1 vụ lúa, 1 vụ cá.
Trong những năm qua được sự quan tâm của lãnh đạo tỉnh phong trào nuôi trồng thủy sản của tỉnh Tuyên Quang đã phát triển rất nhanh, sản lượng thủy sản nuôi trồng năm 2010 tăng gấp 2,2 lần so với năm 2005, các cơ sở sản xuất giống của tỉnh đáp ứng 57% nhu cầu con giống có chất lượng cho đồng bào trong tỉnh, cơ sơ vật chất của các trại cá đang từng bước được nâng cấp.
Năm 2010 Tuyên Quang có 749 lồng cá được nuôi trên sông, hồ. Dự kiến đến 2015, Tuyên Quang phát triển trên 1000 lồng với sản lượng nuôi trồng thủy sản ước đạt 6000 tấn.
Hiện nay phong trào nuôi trồng thủy sản lồng, bè của Tuyên Quang đang có sự dịch chuyển đến những lưu vực lớn có nước sạch hơn, ít ô nhiễm hơn và đặc biệt có thể tạo ra sản lượng hàng hóa lớn, không manh mún nhỏ lẻ như nuôi ao hồ nhỏ. Lấy ví dụ điển hình ở Hải Dương, 6 gia đình đã dời làng, dời ao ra nuôi cá lồng, bè trên sông Kinh Thày và có hộ lãi trên 1 tỷ đồng/năm. Tuy nhiên việc nuôi bền vững và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm là rất quan trọng.
Hiện nay nông dân vẫn nuôi tự phát, chưa tuân thủ quy trình GAP, chưa xây dựng được thương hiệu sản phẩm. Vị trí đặt lồng phải đảm bảo khoảng cách an toàn. Số lượng lồng bè nuôi trên sông phải được các cơ quan chuyên môn tính toán cho phép. Vì vậy, việc phát triển nuôi cá lồng, bè ở hồ Na Hang cần được sự quan tâm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và lãnh đạo tỉnh bởi đây là chìa khóa để giải bài toán hóc búa trong việc phát huy hiệu quả tiềm năng mặt nước của tất cá các hồ chứa hiện nay.
Có thể bạn quan tâm

Những năm gần đây, số lượng tàu thuyền làm nghề khai thác ở vùng biển xa bờ của Bình Thuận đang ngày càng phát triển. Tuy nhiên, dịch vụ hậu cần trên biển cho ngư dân (tiếp nhiên liệu, lương thực, thực phẩm, thu mua hải sản) vẫn chưa đáp ứng được so với nhu cầu thực tế. Điều này ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả của những chuyến đánh bắt cũng như ngành thủy sản của địa phương.

Đầu tháng 10-2014, tiến sĩ Thomas Sutton, kiểm dịch viên cao cấp của Cơ quan Kiểm dịch động thực vật Mỹ, đã đến Bến Tre và Đồng Tháp để đánh giá lần cuối trước khi cấp mã số vùng trồng nhãn cho nông dân đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào Mỹ.

Cùng với việc đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, các cấp hội nông dân trong tỉnh còn phối hợp tổ chức nhiều hoạt động tư vấn, dạy nghề và hỗ trợ, thúc đẩy hội viên, nông dân cải thiện cuộc sống. Qua đó, tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa hội viên với tổ chức hội; đồng thời, củng cố vững chắc hơn vị thế của Hội trong sự phát triển KT - XH của địa phương.

“Ngô năm nay được mùa, khi thu hoạch gia đình tôi phấn khởi lắm. Nhưng khi bán, giá ngô hạt xuống thấp, trừ chi phí đầu tư, lãi thu về chẳng đáng là bao, có hộ trong bản chỉ hòa vốn” - Đó là tâm sự của bà Nguyễn Thị Mền, bản Pú Ngam, xã Núa Ngam, huyện Điện Biên khi chúng tôi hỏi về vụ ngô xuân hè 2014. Dường như nghịch lý “được mùa mất giá” tái diễn trong nhiều năm qua đặt người nông dân vào cảnh vừa làm vừa lo!

Việt Nam - Ấn Độ thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1954, đến nay đã có hàng loạt hiệp định thương mại được ký kết và gần đây nhất là ASEAN - Ấn Độ, tránh đánh thuế hai lần. Theo cam kết, từ đầu năm 2014 nhiều mặt hàng Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Ấn Độ sẽ giảm dần và cắt bỏ thuế quan từ 5-50%.