Nuôi Cá Lóc Đầu Nhím Đạt Hiệu Quả Cao

Hiện nay, có 4 loài cá lóc được người dân nuôi phổ biến là: Cá lóc đen (Ophiocephalus striatus), cá lóc bông (Ophiocephalus microphetes), cá lóc môi trề (Ophiocephalus sp) và cá lóc nhím (cá lóc lai giữa cá lóc đen và cá lóc môi trề).
Năm 2012, Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư Bến Tre chọn cá lóc nuôi làm mô hình trình diễn, tại hộ anh Nguyễn Văn Dứt, ấp Thanh Bình - xã Thạnh Trị (Bình Đại) để nhân rộng. Mô hình được thực hiện với diện tích mặt nước 1.000 m2, độ sâu ao khoảng 1,5m, thả 16 ngàn con cá lóc nhím (trọng lượng 1 ngàn - 1,2 ngàn con/kg). Cá lóc ăn thức ăn công nghiệp Tilapia feed (Uni-President) dùng cho cá rô phi và cá có vảy. Ngày 20-12-2012, Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư đã nghiệm thu mô hình. Kết quả, cá lóc nuôi 4 tháng rưỡi, có trọng lượng trung bình đạt 500 gr/con, tỷ lệ sống 60%, hệ số chuyển hóa thức ăn FCR: 1,1 (vượt chỉ tiêu ban đầu FCR: 1,4). Tổng sản lượng cá lóc thu hoạch tại thời điểm nghiệm thu đạt 4,8 tấn, với giá 40 ngàn đồng/kg. Sau khi trừ chi phí, anh Nguyễn Văn Dứt thu lãi trên 40 triệu đồng.
Anh Dứt chia sẻ, để đạt hiệu quả cao khi nuôi cá lóc, người nuôi phải làm tốt việc chuẩn bị ao, chọn giống, chăm sóc cũng như cách phòng trị bệnh cho cá; đặc biệt là cách thức phối trộn thức ăn và cách cho cá ăn ở các giai đoạn phát triển. Điều quan trọng quyết định sự thành công là việc quản lý thức ăn và phương thức chọn cá lóc giống. Bởi, cá lóc là loài cá dữ, sự tranh giành thức ăn trong ao rất mãnh liệt, nếu thiếu thức ăn, thì cá lớn sẽ ăn cá nhỏ. Vì vậy, nên chọn đàn cá lóc cùng ngày tuổi và cùng kích thước. Bên cạnh đó, người nuôi cần chọn mua cá lóc giống ở những nơi tin cậy, có nguồn gốc rõ ràng, cá khỏe mạnh, không dị hình, trầy xước và không có triệu chứng bị bệnh.
Trong quá trình nuôi, tháng đầu, cho cá lóc ăn cá phân được xay nhuyễn phối trộn với thức ăn viên chuyên dùng cho cá rô phi và cá có vảy (tỷ lệ 90% cá phân, 10% thức ăn công nghiệp); 3 ngày tăng tỷ lệ thức ăn công nghiệp lên 10%. Mỗi ngày, cho cá ăn hai lần, lúc 7 giờ và 17 giờ. Sau một tháng, cho cá ăn hoàn toàn thức ăn viên chuyên dùng đến khi cuối vụ. Thay nước mỗi ngày khoảng 10%. Để quản lý tốt nguồn thức ăn khi cho cá lóc ăn, ngoài sàng cho cá lóc ăn bên trên, thì bên dưới nên có một lưới mắt nhỏ để hứng thức ăn dư thừa, cuối mỗi ngày vớt bỏ một lần. Nếu thức ăn thừa thì ngày sau giảm lượng thức ăn và ngược lại để đảm bảo đủ thức ăn cho cá.
Nhằm đa dạng hóa mô hình, đối tượng nuôi, đồng thời giảm ô nhiễm môi trường, dịch bệnh một cách tự nhiên và tận dụng nguồn thức ăn dư thừa còn lại trong ao, anh Dứt đã thả nuôi ghép 10 kg cá rô phi giống, sau khi thả nuôi cá lóc được 1 tháng. Với hình thức nuôi này, anh đã tăng thu nhập từ cá rô phi hơn 10 triệu đồng. Đây là mô hình nuôi thủy sản hiệu quả và mang tính bền vững, nhiều triển vọng.
Có thể bạn quan tâm

Theo thống kê của ngành chức năng, vào khoảng trung tuần tháng 4/2014, giá tôm thẻ chân trắng ở một số địa phương như Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng… tuột dốc và đã ở mức chạm đáy, chỉ còn 92.000-100.000 đồng/kg (loại 100 con/kg).

Ngày 22/4/2014, tại huyện Duyên Hải, ông Nguyễn Văn Phong, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh chủ trì hội nghị với 04 huyện Duyên Hải, Cầu Ngang, Trà Cú, Châu Thành để tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nhất là về tình trạng thiếu điện và thiếu vốn phục vụ cho vụ nuôi tôm 2014.

Những năm gần đây, các hộ chăn nuôi bò sữa rất phấn khởi vì lợi nhuận từ bò sữa khá cao. Theo lời một người nuôi bò sữa lâu năm ở huyện Trảng Bàng (Tây Ninh), hiện nay một con bò đang cho sữa có thể đem về cho người chăn nuôi hơn 100.000 đồng/ngày; với 5 con bò sữa người nuôi sẽ có thu nhập cao hơn so với việc sản xuất 1 ha lúa. Nhiều năm qua, đàn bò sữa chỉ phát triển ở huyện Trảng Bàng, còn các huyện lân cận rất hiếm.

Để đảm bảo nguồn thức ăn cho bò sữa – con vật chủ lực giúp nhiều hộ vươn lên thoát nghèo, một số địa phương đang mở rộng diện tích trồng cỏ, nhất là các loại cỏ giàu dinh dưỡng và có năng suất cao để làm thức ăn cho bò.

Phần lớn diện tích cây cà phê Catimor tại huyện Hướng Hóa (Quảng Trị) được trồng trong giai đoạn 1990-1991. Tính đến nay tuổi thọ trung bình đã hơn 20 năm trong khi chu kỳ khai thác hiệu quả nhất của cây cà phê vào khoảng 12 đến 15 năm.