NPK-S Lâm Thao tăng năng suất ngô đông

1. Một số khái niệm chung
Cây ngô (tên khoa học Zea mays L.thuộc họ Hòa thảo Gramineae) ngày càng được chú ý phát triển ở nước ta, đặc biệt là ngô đông sau 2 vụ lúa ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng và ngô xuân hè, thu đông ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
Sinh trưởng phát triển của ngô chia thành 2 giai đoạn:
* Giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng: Từ nảy mầm, ra lá đến xuất hiện mô ở các cơ quan sinh sản.
+ Thời kỳ nảy mầm (từ gieo đến 3 lá thật):
- Phụ thuộc nhiều vào chất dinh dưỡng của nội nhũ.
- Sau khi có 3 lá thật, lượng dinh dưỡng có trong nội nhũ hạt, cây non chuyển từ sống nhờ dinh dưỡng trong hạt sang tìm kiếm thức ăn từ đất và dinh dưỡng bổ sung.
+ Thời kỳ từ 3 lá đến phân hóa hoa:
Cây ngô cần độ ẩm đất từ 65 - 75%, tơi xốp, đủ oxy cho rễ phát triển… cần đủ dinh dưỡng. Bón thúc kịp thời ở giai đoạn 3 - 4 lá.
* Giai đoạn sinh trưởng sinh thực: Lá và cơ quan sinh sản phát triển mạnh, xuất hiện nhị cái.
+ Thời kỳ phân hóa hoa, trỗ cờ:
Cây ngô lớn nhanh, phân hóa tạo các bộ phận hoa cờ và bắp quyết định năng suất ngô. Lá và đốt phát triển nhanh vào cuối giai đoạn thoát bông cờ khỏi bẹ lá. Cần bón thúc, kết hợp xới đất và vun luống lên cao cho ngô.
+ Thời kỳ nở hoa (trỗ cờ, tung phấn, phun râu):
Diễn ra trong khoảng 10 – 15 ngày, ngô lai tập trung trong khoảng 7 – 10 ngày. Ngô tung phấn, nhận phấn, thụ tinh. Nhiệt độ thích hợp 22 – 28oC, nhiệt độ < 13oC và > 35oC hạt phấn mất sức sống và chết. Độ ẩm không khí thích hợp là 80%, độ ẩm đất thích hợp 80% độ ẩm bão hòa.
+ Thời kỳ chín (thụ tinh đến chín):
Thời kỳ này kéo dài 30 – 45 ngày tùy từng giống, trong đó:
- Chín sữa ( 10 – 15 ngày),
- Chín sáp (10 – 15 ngày),
- Chín hoàn toàn ( 10-15 ngày).
Thời kỳ chín, các chất dinh dưỡng vận chuyển từ lá vào hạt; vai trò quang hợp của bộ lá vẫn quan trọng, 60 – 80% sản phẩm quang hợp từ lá vận chuyển vào hạt; yêu cầu nhiệt độ của thời kỳ này là 20 – 25oC, ẩm độ đất là 60 – 70% độ ẩm bão hòa.
2. Đất và thời vụ trồng ngô
2.1 Đất trồng ngô
Cây ngô thích nghi với nhiều loại đất khác nhau, nó có thể trồng được trên đất feralit và feralit mùn trên núi cao như ở huyện Quản Bạ (Hà Giang).
Ngô sinh trưởng tốt và cho năng suất cao trên đất đen đá vôi (cao nguyên Nà Sản, huyện Mộc Châu- Sơn La), ngô cũng cho năng suất cao trên đất phát triển trên đá bazan ở Đăk Lăk.
Ở đồng bằng ngô có thể trồng được và cho năng suất cao trên đất phù sa sông, đất bạc màu, đất phèn sau 2 vụ lúa. Nhiều diện tích ngô được trồng trên đất bãi bồi ven sông.
2.2.Giống và thời vụ trồng ngô
Ngô phân bố rộng trên phạm vi toàn quốc, tùy theo điều kiện khí hậu mà thời vụ gieo trồng ngô khác nhau ở các vùng song chủ yếu có các vụ chính là đông xuân, xuân hè và thu đông.
+ Giống ngô
Giống ngô được phân theo 6 nhóm giống: Giống ngô tự thụ phấn, giống ngô lai quy ước, giống ngô lai không quy ước, ngô nếp, ngô đường và ngô rau. Mỗi giống có thời gian sinh trường khác nhau ở các vụ trồng trong năm.
Dưới đây là một số giống ngô đang được trồng phổ biến hiện nay trong vụ đông với thời gian sinh trưởng như sau:
-Nhóm giống ngô tự thụ phấn
- Nhóm giống ngô lai quy ước
- Nhóm giống ngô không quy ước
- Nhóm giống ngô nếp
- Nhóm giống ngô đường
- Ngô rau
+ Thời vụ gieo trồng ngô đông
- Vụ thu gieo vào cuối tháng 7 đầu tháng 8.
- Vụ thu đông ở miền núi nên gieo trước 25/8 để có năng suất cao.
- Vụ đông nên kết thúc trồng trước ngày 30/9 (chậm nhất đến 5/10 đối với giống ngắn ngày). Đối với vụ đông ở phía Bắc nếu gieo sau 20/9 thì phải làm bầu.
3. Lượng phân bón NPK-S Lâm Thao cho ngô đông
Loại phân | Bón lót | Bón thúc 5-7 lá | Bón trước khi trỗ (xoáy nõn) |
Tính cho 1 ha (kg/ha) | |||
Phân chuồng | 7000-10000 |
|
|
NPK-S 5-10-3-8 | 600-700 |
|
|
NPK-S12.5.10-14 |
| 250-280 | 250-280 |
Tính cho 1 sào Bắc bộ (kg/360 m2) | |||
Phân chuồng | 250-350 |
|
|
NPK-S 5-10-3-8 | 20-25 |
|
|
NPK-S 12-5-10-14 |
| 9-10 | 9-10 |
(Đối với giống ngô lai thì bón ở mức cao hơn so với giống ngô thuần, trên đất nghèo bón ở mức cao so với đất giàu dinh dưỡng khoảng 10%). |
Chúc bà con nông dân sử dụng phân bón NPK-S Lâm Thao hợp lý cho các giống ngô trong vụ đông để đạt hiệu quả kinh tế cao theo hướng thâm canh, tăng vụ.
Có thể bạn quan tâm

Không chỉ mất cân đối về quy hoạch giữa nguồn lương thực xuất khẩu và nguồn nguyên liệu chăn nuôi trong nước, gây những xáo trộn mà những quan sát mới nhất từ các chuyên gia kinh tế đã chỉ ra rằng, vị thế cây lúa đã qua “thời gái son”, không chỉ thị trường xuất khẩu co hẹp mà còn đang làm sụt giảm đà tăng trưởng của ngành nông nghiệp...

Những năm qua, các tỉnh, thành vùng ĐBSCL đều hướng người chăn nuôi sản xuất theo hướng tập trung, chăn nuôi trang trại, công nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế, chăn nuôi nhỏ lẻ, nông hộ vẫn duy trì và hằng năm cung ứng một sản lượng không nhỏ phục vụ nhu cầu tiêu thụ nội địa. Trước tình hình này, Bộ NN&PTNT khẳng định tiếp tục bám sát mục tiêu đề ra, song vẫn có những hỗ trợ cần thiết cho chăn nuôi nhỏ lẻ, từng bước chuyển dần sang chăn nuôi tập trung, quy mô lớn.

Trong những năm gần đây, việc ứng dụng các giải pháp kỹ thuật thích hợp vào nuôi thủy sản ngày càng phát triển tích cực, đặc biệt là việc sử dụng các loại chế phẩm sinh học vì giúp nâng cao sức tăng trưởng, đề kháng của tôm, cá và hạn chế việc lưu tồn mầm bệnh trong nước, giảm thiểu các tác động gây ô nhiễm môi trường.

Thủ tướng Chính phủ đồng ý chủ trương UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu triển khai thực hiện các bước lập quy hoạch, lập dự án đầu tư xây dựng Trung tâm nghề cá lớn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu gắn với ngư trường Đông Nam bộ.

Theo tin từ Chi cục nuôi trồng thuỷ sản 7 tháng đầu năm sản lượng nuôi trồng thuỷ sản toàn tỉnh Quảng Ninh ước đạt 19.859 tấn, tăng 28% so với cùng kỳ, đạt 48,44% so với kế hoạch. Trong đó, sản lượng nuôi mặn lợ đạt 14.457 tấn, sản lượng thuỷ sản nước ngọt đạt 5.402 tấn.