Nông dân với tái cơ cấu mong có hiệp hội lúa gạo kiểu Myanmar

Nhiều mục tiêu áp đặt, thiếu thực tế
Tại hội nghị lấy ý kiến góp ý dự thảo đề án tái cơ cấu ngành hàng lúa gạo do Cục Trồng trọt (Bộ NNPTNT) tổ chức sáng 28.10 tại TP.HCM, nhiều ý kiến cho rằng “chưa nghiêm túc” trong quá trình xây dựng đề án này.
Nông dân phơi lúa tạm trữ, chờ giá lên ở huyện Tam Nông (Đồng Tháp).
Ông Nguyễn Tiến Dũng –Công ty CP Tập đoàn Lộc Trời cho rằng, Cục Trồng trọt đã đưa ra các mục tiêu “chạy theo thị trường”, không sát với thực tế sản xuất, kinh doanh lúa gạo trong nước.
Ví dụ như trong mục tiêu đến năm 2020, đề án đặt mục tiêu tỷ lệ gạo xuất khẩu chất lượng cao đạt 60 – 70% tổng lượng gạo xuất khẩu, trong đó gạo thơm, đặc sản phải chiếm 20 – 30%.
Tuy nhiên, đề án lại không tính đến chuyện để đạt được mục tiêu này, doanh nghiệp (DN) phải bán gạo cho ai, ở thị trường nào?
“Ví dụ như gạo thơm, hiện đã có hàng trăm giống, giống nào cũng tốt, cũng thơm nhưng DN, nông dân không biết thị trường cần giống nào.
Nếu không có những điều tra cụ thể mà chỉ áp đặt mục tiêu, ngành nông nghiệp sẽ tiếp tục luẩn quẩn trong việc trồng giống gì, diện tích bao nhiêu...”-ông Dũng nói thêm.
Ông Huỳnh Thế Năng – Tổng Giám đốc Tổng Công ty Lương thực Miền Nam (Vinafood II) cũng cho rằng nhiều mục tiêu trong đề án này còn rất “ngây ngô”, không thực tế.
Cụ thể như, đề án cho rằng, các DN thành viên của Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) toàn là DN lớn, có thể “dắt mũi” hoạt động kinh doanh, xuất khẩu gạo.
Nhưng theo ông Năng, VFA hiện chỉ có Tổng Công ty Lương thực Miền Bắc (Vinafood I) và Tổng Công ty lương thực Miền Nam (Vinafood II) là DN lớn, còn lại cả nước hiện có 130 DN có giấy phép xuất khẩu gạo đều là DN vừa và nhỏ.
Do đó, theo ông Năng, đề án đặt mục tiêu mở rộng VFA với đại diện nhiều thành phần khác trong chuỗi lúa gạo như nông dân, cơ quan quản lý nhà nước, các thành phần DN xay xát, chế biến… là không thực tế.
VFA là hiệp hội của các nhà xuất khẩu gạo, kinh doanh lúa gạo, còn đại diện nông dân đã có Hội Nông dân.
Về vấn đề này, ông Bùi Bá Bổng - nguyên Thứ trưởng Bộ NNPTNT cho rằng, Việt Nam cần một hiệp hội lúa gạo, kiểu như hiệp hội lúa gạo của Myanmar hay Campuchia đã hoàn thiện, hoạt động rất tốt và theo cơ chế thị trường.
Ông Bổng cho rằng, Việt Nam nên học tập thêm từ các hiệp hội này.
“Cái cần không có, cái khó chưa thông”
Nhiều ý kiến tại hội nghị cho rằng những vấn đề cần thiết cho phát triển sản xuất lúa gạo ở vùng ĐBSL hiện nay như cơ sở hạ tầng, giao thông, cảng biển… chưa được quan tâm đúng mức trong đề án.
Theo ông Huỳnh Thế Năng, đề án đặt mục tiêu xây dựng giống lúa Jasmine thành một sản phẩm có thương hiệu của gạo Việt Nam, thế nhưng việc kiểm tra độ thuần của Jasmine hiện rất khó khăn.
Cả vùng ĐBSCL chỉ có Viện Lúa Ô Môn (Cần Thơ) có máy phân tích độ thuần của Jasmine nhưng thời gian cho kết quả kéo dài 7-10 ngày, với giá cũng cao hơn nhiều so với nước ngoài.
Ngược lại, ở Thái Lan, việc kiểm tra chỉ tốn 7 – 8 giờ.
Việc thiếu máy móc kiểm tra chất lượng gạo khiến DN xuất khẩu gạo thơm phải đối mặt nhiều rủi ro.
Ví dụ như năm ngoái, có 1 DN đưa 1.000 tấn gạo thơm vào Mỹ nhưng đã lỗ hơn 4 tỷ đồng, vì chất lượng gạo không đạt yêu cầu của phía Mỹ.
Cũng theo ông Năng, ở ĐBSCL có 4 nhóm sản phẩm lớn gồm lúa gạo, tôm, cá và trái cây, sản phẩm nào cũng có sản lượng cả triệu tấn, nhưng mạng lưới giao thông ở ĐBSCL lại rất kém, không tải nổi lượng hàng hóa trên.
Hơn nữa, nông sản muốn xuất khẩu phải đưa về TP.HCM khiến chi phí vận chuyển đội lên từ 9 – 12USD/tấn.
Có thể bạn quan tâm

Để thu được một triệu đồng tiền lãi từ nuôi các loài cá truyền thống (cá trắm, cá mè, cá trôi, cá chép…), một người nông dân có thể phải sử dụng đến hàng trăm m2 ao nuôi, nhưng với anh Nguyễn Hữu Tân, ở tổ 1, phường Tân Quang, thị xã Tuyên Quang (tỉnh Tuyên Quang), chỉ với 3 chiếc lồng nuôi cá, rộng 8 m2 mỗi lồng, trung bình hàng năm đem về cho anh 70-80 triệu đồng tiền lãi.

Sau 23 năm phục vụ quân đội, năm 1990 ông Năng Văn Tuyến, thôn Quan Ngoại, xã Tam Quan (Tam Đảo) trở về địa phương với hai bàn tay trắng. Kinh tế gia đình ông ngày càng khó khăn và vất vả, bởi nguồn thu nhập gia đình lúc đó chủ yếu dựa vào 5 sào ruộng. Năm 1996, ông Tuyến đã bàn với gia đình mua 2 mẫu diện tích đất đồi của HTX với thời gian 50 năm để trồng cây ăn quả và chăn nuôi.

Mô hình chăn nuôi bò sữa trên địa bàn huyện Khoái Châu (Hưng Yên) được bắt đầu phát triển từ năm 2003 với sự hỗ trợ theo chương trình đề án chăn nuôi bò sữa của tỉnh, triển khai tại các xã vùng màu, vùng bãi, vùng bối. Tuy nhiên, sau một thời gian đàn bò sữa trên địa bàn huyện bị giảm do một số con bị ốm không chữa được, do đẻ khó, một số con sau khi nuôi bị vô sinh, sữa kém nên phải loại thải. Thị trường tiêu thụ sữa gặp khó khăn, giá sữa xuống thấp trong thời gian dài, người chăn nuôi bò sữa được lãi thấp, thậm chí bị thua lỗ nên một số hộ đã bán bò để thu hồi vốn trả nợ ngân hàng. Cùng thời điểm, giá bò lai sind giá lên cao, lãi nhiều, chăn nuôi lại đơn giản hơn bò sữa, nhiều hộ giảm bò sữa chuyển sang chăn nuôi bò lai sind, lấy giống cho bò sữa bằng bò lai sind. Bên cạnh đó, lực lượng cán bộ thú y còn mỏng, thiếu kinh nghiệm trong việc chẩn đoán, điều trị bệnh và thụ tinh nhân tạo; giá đầu vào như thức ăn tinh, công lao động, thuốc thú y... tăng cao trong khi giá sữa lại thấp và kéo dài, làm cho chăn nuôi

Theo Chi cục Thủy sản Cần Thơ, từ giữa tháng 3/2013, giá cá tra nguyên liệu trên địa bàn thành phố ở mức 19.500 - 21.000 đồng/kg, đến đầu tháng 4, giá cá nhích lên 500 đồng/kg, trong khi giá thành sản xuất dao động từ 23.000 - 24.000 đồng/kg. Ở thời điểm giá cá tra nguyên liệu tăng nhẹ thì giá cá tra giống lại giảm 3.000 đồng/kg so với tháng trước.

Không chịu sức ép từ gà thải loại nhập lậu, trong khi khu cầu thực dịp tết tăng mạnh nên gà chăn nuôi trong nước được giá. Người tiêu cũng tin tưởng hơn vì gà chất lượng bảo đảm dịp Tết còn người chăn nuôi phấn khởi vì có thêm thu nhập.