Những lưu ý trong việc bón phân cho lúa vụ mùa

Sử dụng NPK 5.10.3 và NPK 16.5.17
Sinh lý cây lúa vụ mùa thường có 2 giai đoạn cần nhiều dinh dưỡng nhất đó là giai đoạn đẻ nhánh và giai đoạn làm đòng, mỗi giai đoạn nhu cầu dinh dưỡng cân đối khác nhau: Giai đoạn lúa đẻ nhánh cần các chất dinh dưỡng đa lượng đạm (N), lân (P), kali (K) theo tỷ lệ phù hợp là (1-0,5-1) các chất trung lượng như vôi (CaO) > 10%, magiê (MgO) > 8%, silic (SiO2) > 6% và lưu huỳnh cùng các chất dinh dưỡng vi lượng như kẽm, bo, sắt, đồng, man gan… đến giai đoạn lúa làm đòng thì cây lúa cần cân đối dinh dưỡng NPK theo tỷ lệ (1-1,5-0,5) và các chất trung lượng như vôi > 15%, magiê > 10%, silic > 15%, lưu huỳnh > 2% và các chất vi lượng.
Tuy nhiên do nhận thức còn hạn chế nên việc sử dụng phân bón cho lúa mùa còn bộc lộ nhiều tồn tại như sử dụng nhiều phân đơn hoặc NPK thông thường thiếu các chất trung lượng, vi lượng làm cho cây lúa vụ mùa yếu, lá mềm bẹ thân mỏng sức chống chịu các điều kiện ngoại cảnh kém khi gặp mưa dông thường lá bị rách. Đây là tiền đề cho các loại bệnh bạc lá, khô vằn và các đối tượng sâu cuốn lá nhỏ, rầy nâu gây hại thậm chí đổ non làm thất thu giảm năng suất đáng kể.
Để đảm bảo cho vụ mùa năng suất cao thì việc sử dụng lựa chọn phân bón cân đối có đầy đủ các yếu tố dinh dưỡng từ đa lượng, trung lượng, vi lượng mang tính chất quyết định đến kết quả của sản xuất vụ mùa.
Trong nhiều năm qua bà con nông dân ở các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, trung du miền núi phía Bắc đã tin dùng phân bón đa yếu tố NPK Văn Điển cho lúa gồm phân bón lót NPK 5.10.3 có thành phần dinh dưỡng N = 5%, P2O5 = 10%, K2O = 3%, CaO = 15%, MgO = 10%, SiO2 = 15%, S= 2% và các chất vi lượng tổng dinh dưỡng đạt trên 58% và phân bón thúc NPK 16.5.17 có hàm lượng dinh dưỡng N = 16%, P2O5 = 5%, K2O = 17%, CaO = 8%, MgO = 5%, SiO2 = 7%, S= 2%, và các chất vi lượng tổng dinh dưỡng đạt trên 60%.
Lợi ích kép
Phân bón NPK 5.10.3 được bón lót sâu trước cấy hoặc trước khi gieo thẳng có lợi ích kép: Vừa đáp ứng thỏa mãn nhu cầu dinh dưỡng cho cây lúa mới cấy để ra rễ nhanh hút được nhiều dinh dưỡng phát triển lá mới và bước vào thời kỳ đẻ nhánh, lượng phân bón chủ yếu còn lại được dự trữ ở trong lớp đất sâu định hướng cho bộ rễ lúa ăn ở giai đoạn làm đòng đồng thời lượng vôi ở trong đất khử chua khử độc làm cho lúa không bị nghẹt rễ, phát triển nhanh với mức bón ở vụ mùa từ 20-25kg/sào (360m2) tùy theo chân ruộng và lượng phân hữu cơ để điều chỉnh các mức độ cho phù hợp. Khi cây lúa bắt đầu đẻ nhánh khoảng 8-10 ngày sau cấy hoặc có từ 3-3,5 lá đối với lúa gieo thẳng là tiến hành bón thúc NPK 16.5.17.
Phân bón thúc có đặc điểm nổi bật là hàm lượng đạm và kali cân đối (1-1) các hàm lượng dinh dưỡng khác như lân, canxi, magiê, silic có hàm lượng trung bình đã giúp cho cây lúa có đầy đủ dinh dưỡng đẻ nhánh sớm, đẻ gọn, dảnh to, thân lá đứng, cây khỏe, màu lá xanh sáng, sức chống chịu với điều kiện ngoại cảnh và sâu bệnh tốt. Bón đồng bộ NPK Văn Điển từ phân lót đến phân thúc tức là cùng một lúc đã cung cấp cho cây lúa đầy đủ, cân đối cả 13 yếu tố dinh dưỡng thiết yếu. Dàn lúa đồng đều, đòng to chống chịu sâu bệnh tốt, khả năng chống đổ cao. Bón phân NPK Văn Điển là giúp cho người nông dân có vụ mùa bội thu và hiệu quả kinh tế cao.
Có thể bạn quan tâm

Phát biểu tại buổi lễ, ông Trần Tuấn Anh đánh giá cao sáng kiến, nỗ lực đi đúng hướng của VRG trong việc thành lập Cty VRG JAPAN và cho rằng việc ra đời của Cty không chỉ đa dạng hóa thị trường mà còn nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm XK cao su, góp phần vào việc tiêu thụ mủ cao su bền vững trong thời gian tới.

Anh Trần Văn Nam, thôn Diêm Hà Hạ, xã Gio Hải cho biết, thời tiết thuận lợi nên thuyền của anh ra khơi từ ngày mùng 2 tết. Tưởng chừng mẻ lưới đầu tiên chỉ để “lấy ngày”, không ngờ khi kéo lên đã bắt được hơn 2 tạ cá. So với đầu xuân năm 2014, cá trích năm nay vừa được mùa vừa được giá – anh Nam cho biết thêm.

Vì vậy, những diện tích gieo cấy trước thời vụ, trước thời điểm Lập xuân, trà xuân sớm, trà xuân trung, các giống lúa ngắn ngày có nguy cơ trỗ sớm và có thể gặp rét vào cuối vụ, gây ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng lúa. Ngoài ra, nguy cơ thiếu nước và tình hình sâu bệnh có khả năng diễn biến hết sức phức tạp.

Từ năm 2013 đến nay, giá tôm thế giới liên tục nằm ở mức cao do sản lượng tôm giảm mạnh dưới ảnh hưởng của Hội chứng tôm chết sớm (EMS). Năm 2014, EMS trên tôm tại một số nước đã cơ bản được khống chế nhưng vẫn còn hoành hành tại một số nước sản xuất tôm lớn trên thế giới như Trung Quốc, Thái Lan. Thật khó có thể đưa ra dự báo về giá tôm khi mà ảnh hưởng của EMS và kết quả khắc phục sau đó vẫn rất khó dự đoán.

Tại vùng biển miền Trung như Nghệ An, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Phú Yên đến các vùng biển Nam Bộ như Kiên Giang, Cà Mau… ngư dân phấn khởi khi trúng đậm mùa tôm, cá biển. Thêm vào đó, một số loại hải sản được giá như cá cơm, cá nục, cá thu, cá ngừ, tôm, nhuyên thể… giúp các tàu đánh bắt tăng thêm thu nhập.