Những Biện Pháp Quyết Định Hiệu Quả Nuôi Tôm Sú

Theo thống kê đến nay, diện tích nuôi tôm trong vùng quy hoạch toàn tỉnh Nghệ An đạt 1.610 ha, trong đó diện tích nuôi tôm he chân trắng là 309,25 ha tập trung ở một số huyện, thị là Quỳnh Lưu 165 ha, Diễn Châu 65 ha, Nghi Lộc 80,25 ha, TP Vinh 15 ha, Cửa Lò 4 ha....
Số liệu khảo sát của Chi cục Nuôi trồng thuỷ sản cho thấy con tôm sú vẫn là đối tượng nuôi chính trong nuôi mặn lợ tại tỉnh Nghệ An.
Cũng theo báo cáo ban đầu của Chi cục Nuôi trồng thuỷ sản thì năm nay năng suất tôm sú bình quân đạt 0,98 tấn/ha, trong đó năng suất nuôi thâm canh và bán thâm canh đạt 1,5 tấn/ha/vụ. Như vậy, trừ một số trường hợp cá biệt ở xã Quỳnh Bảng là hộ ông Hoàng Hường - Trịnh Môn đạt năng suất 5 tấn/ha, hộ ông Hoàng Tiêu đạt năng suất 4 tấn/ha, năng suất như trên là thấp hơn năng suất của năm 2008. Đâu là bí quyết thành công của hai trường hợp điển hình trên?
Trên cơ sở tìm hiểu và kinh nghiệm hai ông đúc kết được cho biết, muốn nuôi tôm sú đạt hiệu quả cao, người nuôi cần thực hiện một số biện pháp sau:
Thứ nhất, phải cải tạo ao, đầm nuôi tôm bảo đảm đúng quy trình kỹ thuật: chỉ nên nuôi tôm một vụ trong năm để ao có thời gian nghỉ, tạo môi trường ổn định cho vụ nuôi sau đạt hiệu quả. Trước khi thả tôm giống cần kiểm tra các tiêu chí điều kiện thủy lý, thủy hóa như: quan sát thời tiết, môi trường nguồn nước, độ kiềm, độ mặn...
Thứ hai, cần có hệ thống ao lắng tương xứng để bảo đảm cấp, thay nước khi cần thiết, cần có khu vực chứa bùn thải trong quá trình cải tạo ao để tránh ô nhiễm môi trường ao nuôi và chủ động hoàn toàn trong việc thêm, thay nước khi cần thiết.
Thứ ba, đối với hình thức nuôi thâm canh và bán thâm canh mật độ không nên thả quá 20 con/m2, thời gian thả tôm giống đến khi thu hoạch tôm khoảng 120 - 140 ngày.
Thứ tư, khi lắp đặt thiết bị trong ao nuôi phải chú ý tùy theo hiện trạng, hình dạng ao nuôi để lắp đặt nhằm đảm bảo gom được các chất thải theo mong muốn. Số cánh quạt nước trong ao nuôi để bổ sung ô-xy hợp lý nhất là khoảng một cánh/2.000 con tôm.
Thứ năm, tùy theo nguồn nước mặn từng năm mà đưa ra quy trình nuôi và xử lý cho phù hợp, nhất là ứng dụng các chế phẩm vi sinh theo sự khuyến cáo của ngành Nông nghiệp.
Có thể bạn quan tâm

Bệnh mềm vỏ kinh niên là bệnh thường xảy ra trong các ao nuôi tôm thương phẩm. Biểu hiện của bệnh là sau khi lột xác, vỏ tôm không cứng lại được, vỏ thường bị nhăn nheo, dễ rách nát nên dễ bị cảm nhiễm của các tác nhân gây bệnh, tôm có vỏ mềm yếu, vùi mình dạt bờ. Có nhiều nguyên nhân gây ra hiện tượng mềm vỏ của tôm.

Nước mặn / lợ được đưa vào ao lắng, trữ lắng 7-10 ngày, sát trùng, diệt mầm bệnh bằng clorin 15-30ppm (theo qui trình sử dụng clorin).

Nuôi tôm sú đang là nghề mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân Đồng bằng sông Cửu Long. Hiện nay, nghề nuôi tôm đã tiến đến việc thâm canh hoá ngày càng cao. Do đó, việc quản lý chất lượng nước trong môi trường ao nuôi ngày càng khó khăn, đặc biệt là sự phát sinh tính độc Ammonia (NH3) trong môi trường ao nuôi.

Phong trào sản xuất tôm giống, nuôi tôm thương phẩm ở Việt Nam đã và đang phát triển mạnh đòi hỏi nguồn cung cấp tôm bố mẹ lớn. Nhưng việc xử dụng tôm bố mẹ ngoài tự nhiên bị hạn chế bởi tính mùa vụ và tập tính sinh sản

Ở tôm sú, bệnh thường hay gặp nhất, khó ngăn ngừa và điều trị là bệnh thân đỏ đốm trắng. Theo các công trình nghiên cứu, tất cả các giai đoạn phát triển của tôm đều có thể nhiễm bệnh này. Giai đoạn phát triển mạnh nhất là từ tháng nuôi đầu tiên đến tháng nuôi thứ hai trong ao nuôi tôm thịt.