Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Nhìn Từ Chương Trình Sản Xuất Cây Lương Thực Hàng Hóa

Nhìn Từ Chương Trình Sản Xuất Cây Lương Thực Hàng Hóa
Ngày đăng: 30/10/2014

Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XV Đảng bộ tỉnh đến nay, tổng diện tích lúa, ngô hàng hóa thực hiện được trên 62 nghìn ha, sản lượng đạt trên 207 nghìn tấn, tổng giá trị thu nhập gần 420 tỷ đồng. Bên cạnh giá trị kinh tế, việc sản xuất lúa, ngô hàng hóa đã và đang tạo sự thay đổi lớn về nhận thức, hành động của cán bộ, đảng viên và người nông dân.

Tại hội nghị sơ kết sản xuất lúa, ngô hàng hóa mới đây, ông Nguyễn Đức Vinh, Giám đốc Sở NN-PTNT khẳng định: Tỉnh ta nằm trong tốp những địa phương có diện tích lúa, ngô lớn, năng suất đứng thứ 3 khu vực miền núi phía Bắc.

Tuy nhiên, ông cũng thẳng thắn nêu thực trạng sản xuất còn rất manh mún, mang nặng tư duy tự cung tự cấp, chưa hình thành tư duy hàng hóa, sản phẩm nông nghiệp chủ yếu gieo trồng theo nhu cầu tiêu dùng của gia đình, khi dư thừa mới mang ra chợ bán... nên hiệu quả kinh tế chưa cao.

Nhằm tạo chuyển biến về tư duy, nhận thức, tiến tới thay đổi phương thức gieo trồng cây lương thực, Đại hội XV Đảng bộ tỉnh xác định sản xuất lúa, ngô hàng hóa tập trung gắn chế biến là một nội dung của “4 đổi mới, 8 đột phá, 15 chương trình trọng tâm”. Đây là quyết tâm chính trị rất lớn của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân các dân tộc trong tỉnh, đồng thời thể hiện mong muốn, khát khao đưa sản xuất nông nghiệp tiến lên nấc thang mới.

Với định hướng được xác định rõ, ngay từ đầu nhiệm kỳ, tỉnh đã ban hành, cụ thể hóa nhiều cơ chế, chính sách làm kim chỉ nam cho quá trình thực hiện.

Trên cơ sở cơ chế, chính sách của tỉnh, các huyện, thành phố ban hành 16 phương án, 4 kế hoạch với lộ trình, thời gian thực hiện cụ thể. Chỉ trong thời gian ngắn, trên địa bàn các huyện trọng điểm sản xuất lúa, ngô hàng hóa như Vị Xuyên, Quang Bình, Bắc Quang, Xín Mần... đã hình thành nhiều mô hình hay, cách làm hiệu quả.

Chẳng hạn như, huyện Xín Mần sớm chủ động quy hoạch vùng nguyên liệu ngô hàng hóa với diện tích trên 1.524 ha, xây dựng mối liên kết sản xuất ngô hàng hóa giữa Công ty Cổ phần phát triển Xín Mần với nhóm hộ, hộ nông dân, bao tiêu sản phẩm với giá cao hơn bình quân thị trường từ 300-500 đồng/kg ngô hạt; xây dựng 2 vùng nguyên liệu sản xuất lúa hàng hóa gồm nếp Quảng Nguyên gắn với HTX chế biến rượu, phát triển vùng sản xuất lúa Già Dui xã Thèn Phàng gắn với Công ty TNHH Gia Long bao tiêu sản phẩm.

Tại các huyện khác như Bắc Quang, Quang Bình đã, đang gieo trồng theo mô hình cánh đồng mẫu thâm canh, thí điểm đầu tư có thu hồi để tái cơ cấu với phương châm 5 cùng - cùng giống, cùng gieo trồng, cùng chăm sóc, cùng bảo vệ, cùng thu hoạch tiêu thụ sản phẩm.

Từ sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền tỉnh, sự năng động của ngành chuyên môn, tinh thần vào cuộc hưởng ứng quyết liệt của người dân, qua 4 năm triển khai, tổng diện tích lúa hàng hóa thực hiện được trên 29 nghìn ha, sản lượng đạt gần 114 nghìn tấn, tổng giá trị thu nhập đạt gần 213 tỷ đồng.

Còn đối với cây ngô hàng hóa, tổng diện tích gieo trồng đạt trên 33,4 nghìn ha, sản lượng trên 93,4 nghìn tấn, giá trị thu nhập gần 205 tỷ đồng.

Một trong những thành công của chương trình sản xuất lúa, ngô hàng hóa chính là các huyện đã chủ động lựa chọn được bộ giống phù hợp, đã thay đổi hoàn toàn bộ giống lúa lai sang lúa thuần chất lượng cao. Đối với cây ngô, việc sử dụng các giống lai tăng mạnh, đạt gần 20% trong giai đoạn 2011-2014.

Sản xuất lúa, ngô hàng hóa từ chủ trương đến hành động cụ thể, được triển khai vào thực tiễn đời sống đã giải quyết việc làm, tạo thu nhập ổn định cho người lao động, chuyển dần từ tư duy làm ăn nhỏ lẻ, manh mún sang tập trung, quy mô lớn.

Đồng thời, góp phần thay đổi nhận thức của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tăng giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích canh tác.

Bên cạnh những mặt tích cực, chương trình sản xuất lúa, ngô hàng hóa gắn chế biến đã bộc lộ nhiều khó khăn, đòi hỏi phải có sự đổi mới.

Chính vì vậy, tại hội nghị sơ kết nội dung này, các đại biểu nêu ý kiến, sản xuất nông nghiệp của tỉnh có nhiều cái độc đáo được hình thành từ sự khác biệt về khí hậu, thổ nhưỡng, tập quán canh tác... Người nông dân chịu thương, chịu khó canh tác theo đúng tinh thần “mùa nào thức ấy”, đều có những đặc sản từ nông nghiệp được người tiêu dùng săn đón.

Nhưng để cái độc đáo đó thực sự trở thành hàng hóa, cung cấp ổn định cho thị trường cũng còn nhiều khó khăn, chứ chưa nói gì đến những đơn đặt hàng với số lượng lớn, thời gian giao hàng chuẩn xác. Những ý kiến trên hoàn toàn có cơ sở, chính người viết cũng nhận được nhiều chia sẻ của đồng nghiệp, khi lên Hà Giang, họ rất ngạc nhiên, thích thú với các sản vật nông nghiệp và đặt mua làm quà. Những người may mắn được dùng đều đánh giá cao, nhưng khi đặt mua số lượng lớn, cung cấp ổn định thì người dân không đáp ứng được.

Ngoài ra, mặc dù đã có chương trình, kế hoạch cụ thể nhưng đến nay vẫn chưa quy hoạch được vùng sản xuất lúa, ngô hàng hóa tập trung; chưa đầu tư nguồn lực theo hướng liên kết sản xuất, mới chỉ quan tâm hỗ trợ vùng nguyên liệu nên chưa thu hút được doanh nghiệp trong việc liên doanh, liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm.

Qua tìm hiểu thực tế hoạt động gieo trồng của người nông dân cho thấy, sản xuất chủ yếu theo nhu cầu gia đình, số lượng sản phẩm lúa, ngô đưa ra thị trường, trở thành hàng hóa chưa nhiều nên công nghiệp chế biến chưa phát triển.

Từ thực tế triển khai chương trình thời gian qua, tỉnh tiếp tục chủ trương ổn định diện tích lúa hàng hóa với quy mô 8 nghìn ha trở lên, sản lượng đạt từ 35 nghìn tấn trở lên; diện tích ngô ổn định trên 12 nghìn ha, sản lượng khoảng 32 nghìn tấn. Trong đó, tập trung duy trì, phát triển giống lúa đặc sản Khẩu Mang (Đồng Văn), Già Dui (Xín Mần)... gắn liên kết “4 nhà” với diện tích từ 350-400 ha, sản lượng từ 2.000-2.400 tấn, giá trị sản phẩm đạt 35-50 tỷ đồng.

Ở khía cạnh chế biến sản phẩm nông nghiệp, việc ưu tiên nhất là hoàn thiện hệ thống điện lưới đến các thôn, bản vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện thuận lợi để người dân đầu tư, xây dựng các cơ sở sản xuất, chế biến lúa đặc sản; thúc đẩy hợp tác, kêu gọi đầu tư của các doanh nghiệp vào lĩnh vực chế biến sâu sản phẩm lúa, ngô.

Hy vọng những vướng mắc, hạn chế của giai đoạn đầu thực hiện chương trình sản xuất lúa, ngô hàng hóa tập trung gắp chế biến sớm được tháo gỡ, yếu tố tích cực được phát huy... để sản phẩm nông nghiệp của tỉnh thực sự có thương hiệu trên thị trường.


Có thể bạn quan tâm

Hiệu Quả Từ Mô Hình Nuôi Ong Lấy Mật Ở Thạnh Tây (Tây Ninh) Hiệu Quả Từ Mô Hình Nuôi Ong Lấy Mật Ở Thạnh Tây (Tây Ninh)

Nghề nuôi ong lấy mật ở xã Thạnh Tây đã có từ khá lâu, tuy nhiên trước đây phần lớn là do Vườn quốc gia Gò Gò - Xa Mát tổ chức nuôi. Đến khoảng đầu năm 2013, khi VQG mở lớp đào tạo kỹ thuật và cung cấp con giống cho người dân ở xã Thạnh Tây thì nghề nuôi ong lấy mật mới được nông dân tiếp cận và phát triển. Tuy đây là một mô hình còn khá mới mẻ nhưng bước đầu đã mang lại hiệu quả kinh tế khá cao, giúp người dân nâng cao thu nhập.

19/03/2013
Tiếp Tục Phát Triển Nuôi Cá Điêu Hồng, Cá Rô Phi Tiếp Tục Phát Triển Nuôi Cá Điêu Hồng, Cá Rô Phi

Công ty cổ phần kinh doanh thủy hải sản Sài Gòn (APT Co.) cho biết, công ty đã ký hợp đồng đại lý độc quyền và tiêu thụ nhiều mặt hàng thủy sản với thương hiệu APT tại Hàn Quốc. Ngoài ra, công ty hiện đang sản xuất thêm nhiều mặt hàng thủy sản tinh chế như chả giò, chạo tôm, há cảo… và thủy hải sản khô như cá chỉ vàng, cá điêu hồng... để chào hàng vào thị trường EU, Nhật, Hàn Quốc… Đây là nhóm mặt hàng giá trị gia tăng đem lại hiệu quả cao.

22/03/2013
Cân Đối Diện Tích Nuôi Cá Tra Nguyên Liệu Và Cá Tra Giống Ở Cần Thơ Cân Đối Diện Tích Nuôi Cá Tra Nguyên Liệu Và Cá Tra Giống Ở Cần Thơ

Theo Chi cục Thủy sản TP Cần Thơ, từ đầu năm đến nay, diện tích thả nuôi cá tra của thành phố là 667 ha bằng 96% so với cùng kỳ năm 2012. Sản lượng thu hoạch 12.095 tấn, bằng 66% so với cùng kỳ, năng suất bình quân 212 tấn/ha. Trong tháng 1 và 2, giá cá tra nguyên liệu từ 19.500 – 20.000 đồng/kg, các hộ nuôi lỗ từ 3.500 – 4.000 đồng/kg. Sang đầu tháng 3, giá cá tra nguyên liệu đã tăng lên 22.500 – 23.000 đồng/kg, các hộ nuôi hòa vốn. Về tình hình sản xuất giống cá tra, sau thời gian phát triển nóng từ năm 2012, đến nay, diện tích ương cá tra giống chỉ bằng 56 % so với cùng kỳ năm 2012 tương đương 595 ha, với sản lượng ước đạt 128 triệu con. Nguyên nhân khiến diện tích ương nuôi cá tra giống giảm là do cung vượt cầu trong năm 2012 khiến tình hình tiêu thụ khó khăn. Hiện tại, giá cá tra giống loại 2 phân (2 cm) đã tăng nhẹ lên 25.000 đồng/kg nhưng nguồn thả nuôi còn thấp.

22/03/2013
Sản Xuất Nông Nghiệp Ứng Dụng Công Nghệ Cao Ỡ An Phú Sản Xuất Nông Nghiệp Ứng Dụng Công Nghệ Cao Ỡ An Phú

An Giang là tỉnh có thế mạnh về nông nghiệp, trong đó cây màu phát triển rất mạnh và còn nhiều tiềm năng. Để khai thác hiệu quả hơn tiềm năng đó, đặc biệt là tạo ra sản phẩm sạch chất lượng, năng suất cao nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường, tỉnh đang triển khai mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại một số địa phương, trong đó huyện An Phú được chọn thí điểm 2 mô hình ở xã Phú Hữu và Khánh An.

24/03/2013
Chủ Động Sản Xuất Giống Thủy Sản Phục Vụ Thả Nuôi Ở Thanh Hóa Chủ Động Sản Xuất Giống Thủy Sản Phục Vụ Thả Nuôi Ở Thanh Hóa

Sau nhiều năm nghiên cứu, tiếp thu khoa học công nghệ mới, Trung tâm Nghiên cứu và Sản xuất giống thủy sản Thanh Hóa (trên địa bàn xã Hoằng Thanh, huyện Hoằng Hóa) đã chủ động ứng dụng công nghệ dùng men vi sinh sản xuất tôm giống sạch; ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật sản xuất đa dạng đối tượng giống thủy sản phục vụ nhu cầu thả nuôi luân canh, xen canh với tôm sú.

25/03/2013